Xu hướng tử vong ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland

Thông điệp chính

Tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo độ tuổi ở Anh, với cả nam lẫn nữ, đã giảm trong giai đoạn từ năm 2001-2016. Tuy nhiên, kể từ năm 2011, tỷ suất này lại biến động và tỷ lệ cải thiện thì suy giảm. Điều này được phản ánh trong các dự đoán về tử suất cho năm 2023, và nó cho thấy rằng xu hướng tương lai không hề rõ ràng. Phát hiện này cũng nhất quán với phân tích về xu hướng tuổi thọ trung bình.

Tỷ suất tử vong theo độ tuổi cụ thể giảm ở tất cả các nhóm tuổi từ năm 2001-2016. Tuy nhiên, ở một số nhóm tuổi, tỷ suất này lại biến động trong những năm gần đây và tỷ lệ cải thiện cũng thuyên giảm từ năm 2011. Tỷ suất tử vong của những người có độ tuổi từ 20-24, 30-34, 40-44, 55-59, và 65-69 đều tăng từ năm 2015-2016. Tuy nhiên, trong số này không có mức tăng nào thực sự đáng kể về mặt thống kê (không có ý nghĩa thống kê). Tỷ suất tử vong đối với những người từ 75 tuổi trở lên tăng mạnh trong giai đoạn 2014-2015, nhưng rồi lại giảm từ năm 2015-2016, sau đó lại quay về mức tương tự những năm trước đó.

Vào năm 2016, nguyên nhân khiến nhiều nam giới tử vong nhất chính là bệnh tim, chiếm tới 13,6% tổng số ca tử vong. Còn với nữ giới thì nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong năm này là bệnh Alzheimer, chiếm 15,8% tổng số ca tử vong.

Tỷ suất tử vong do sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer ở nam giới và nữ giới đã tăng đều kể từ năm 2006. Chưa ai lý giải được nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng này, nhưng việc nâng cao nhận thức về sa sút trí tuệ khiến căn bệnh này được chẩn đoán và ghi chép lại một cách phổ biến hơn cũng là một yếu tố. Các dự báo cho năm 2017-2023 dự kiến rằng tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và Alzheimer sẽ tiếp tục tăng ở cả hai giới. Cụ thể, người ta ước tính rằng đến đầu năm 2020 thì nam giới sẽ tử vong vì những bệnh này nhiều hơn là vì mắc bệnh tim, nếu tỷ suất tử vong vì bệnh tim tiếp tục giảm.

Sự thuyên giảm trong tỷ suất tử vong vì bệnh tim cũng chính là nguyên nhân hàng đầu giúp làm tăng tuổi thọ trung bình trong giai đoạn 2001-2016. Tuy nhiên, từ năm 2011-2016, những cải thiện trong tỷ suất tử vong vì bệnh tim lại giảm và sự gia tăng tỷ suất tử vong do sa sút trì tuệ đã bù trừ vào mức tăng tuổi thọ trung bình, lấy đi 0,2 năm tuổi thọ trung bình của nam giới và 0,3 năm đối với nữ giới. Đây là những nguyên nhân góp phần lớn nhất vào sự giảm thiểu tỷ lệ cải thiện tuổi thọ trung bình kể từ năm 2011.

Tỷ suất tử vong do dùng sai thuốc (dùng thuốc cho mục đích không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý hoặc y tế, hay dùng thuốc không theo khuyến cáo của bác sỹ và nhà sản xuất) đã tăng từ năm 2012-2016. Có gần 2.400 trường hợp tử vong vì dùng sai thuốc ở Anh vào năm 2016, tăng 3,6% so với năm trước đó, cũng là mức cao nhất trong lịch sử. Sự gia tăng này có liên quan đến việc sử dụng heroin và thuốc giảm đau nhóm opioid, và số ca tử vong do heroin đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2012-2016. Dữ liệu cho năm 2017 đã chỉ ra sự thuyên giảm đầu tiên trong vòng 5 năm của tỷ suất tử vong do dùng sai thuốc.

Tỷ suất chết yểu (tử vong sớm) của những bị bệnh tâm thần nghiêm trọng (SMI) chẳng hạn như rối loạn lưỡng cực hay tâm thần phân liệt cao hơn 3,7 lần so với của dân số nói chung trong năm tài chính 2014-2015. Khoảng cách này bị mở rộng từ năm 2009-2010 và tỷ suất tử vong ở những người bị SMI đã tăng cao.

Trong số 28 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu thì Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có gánh nặng về tình trạng tử vong sớm ở nam giới đứng thứ 10 trong danh sách tỷ lệ tử vong thấp nhất và thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của Liên minh châu Âu vào năm 2016. Tuy nhiên, với nữ giới thì gánh nặng này nằm ở vị trí thấp nhất thứ 18, và cao hơn đáng kể so với mức trung bình của Liên minh châu Âu.

Có nhiều yếu tố góp phần vào sự khác biệt này trong vị trí xếp hạng về tỷ suất tử vong sớm ở nam giới và nữ giới của Liên minh châu Âu, tuy nhiên, sự chênh lệch lớn nhất trong xếp hạng (15 bậc) nằm ở tỷ suất tử vong sớm do ung thư. Năm 2016, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có tỷ suất tử vong sớm do ung thư ở nam giới thấp nhất thứ 8, trong khi đó thì tỷ suất này ở nữ giới lại được xếp hạng thấp nhất thứ 23. Tỷ suất tử vong do ung thư tương đối cao ở nữ giới tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là một yếu tố góp phần không nhỏ vào việc đẩy thứ bậc về gánh nặng tử vong của nữ giới xuống vị trí thấp hơn (tệ hơn) so với nam giới khi được xếp hạng cùng toàn bộ Liên minh châu Âu.

Giới thiệu

Tỷ suất tử vong đã giảm theo thời gian vì các nguyên nhân khác nhau. Những tiến bộ trong khoa học y tế và các biện pháp can thiệp sức khỏe cộng đồng, bao gồm điều kiện vệ sinh và công tác tiêm chủng tốt hơn, điều kiện nhà ở và điều kiện sống được cải thiện, nước dùng cho sinh hoạt cũng an toàn hơn, đã dẫn đến những thay đổi trong nguyên nhân gây tử vong vì bệnh truyền nhiễm cho tới các bệnh không truyền nhiễm. Điều này đã làm thay đổi tỷ suất tử vong của cả người trẻ tuổi lẫn người cao tuổi. Bài này sẽ đề cập đến các xu hướng tử vong ở Anh, cung cấp những thông tin cập nhật cho báo cáo Hồ sơ sức khỏe của Anh năm 2017, đồng thời bao gồm một số phân tích truyền thống mà năm ngoái chưa được trình bày.

Xu hướng tử vong vì mọi nguyên nhân

Từ năm 2001-2016, tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi vì mọi nguyên nhân đã giảm đáng kể ở cả nam và nữ (biểu đồ 1). Tuy nhiên, kể từ năm 2011, tỷ suất này lại biến động và tỷ lệ cải thiện cũng thuyên giảm. Từ năm 2014-2015, tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi ở nam giới và nữ giới đã tăng mạnh, lần lượt là 3,1% và 5,1%. Sự gụt giảm trong tỷ lệ cải thiện cùng sự gia tăng tử suất trong năm 2015 đang được Cơ quan Y tế Công cộng Anh (PHE) nghiên cứu thêm, nhưng bệnh cúm có khả năng là yếu tố góp phần vào sự gia tăng năm 2015. Dữ liệu cho năm 2016 cho thấy mức giảm đáng kể so với năm 2015 đối với cả nam giới và nữ giới, lần lượt là 2,6% và 3,0% (biểu đồ 1).

Chuỗi thời gian cho tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo thời gian từ năm 2001-2016 đã được sử dụng như cơ sở để dự đoán xu hướng cho năm 2017-2023 như đã biểu thị trong Biểu đồ 1. Các giới hạn tin cậy xoay quanh những dự báo này phản ánh sự không chắc chắn xung quanh những biến động gần đây cũng như sự sụt giảm trong tỷ lệ cải thiện của xu hướng. Chúng chưa được quan sát đủ lâu để chỉ ra một cách chính xác các xu hướng tương lai. Các dự báo này cho biết rằng xu hướng tương lai của cả hai giới là chưa rõ ràng.

Biểu đồ 1: Xu hướng tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi, nam giới và nữ giới, Anh, 2001-2016 và dự báo cho năm 2017-2023

tỷ lệ tử vong vì tất cả các nguyên nhân

Nguồn: Phân tích dữ liệu tử vong từ Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) của PHE

Xu hướng trong tỷ suất tử vong theo độ tuổi cụ thể

Biểu đồ 2 biểu thị tỷ suất tử vong vì mọi nguyên nhân từ năm 2001-2016 của các nhóm tuổi có khoảng cách chênh lệch giữa hai độ tuổi là 5 năm. Ba thang đo khác nhau đã được sử dụng để trình bày dữ liệu nhằm chỉ ra rõ xu hướng theo thời gian ở mỗi nhóm tuổi.

Tỷ suất tử vong giảm ở tất cả các nhóm tuổi trong giai đoạn 2001-2016. Tuy nhiên, những cải thiện trong tỷ suất tử vong đã giảm từ năm 2011, và xuất hiện mức tăng ở một số nhóm tuổi từ năm 2015-2016 (biểu đồ 2). Tỷ suất tử vong của những người ở độ tuổi 20-24, 30-34, 40-44, 55-59, và 65-69 trong năm 2016 đều tăng so với năm 2015 (biểu đồ 2). Trong số đó thì những người từ 30-34 tuổi có sự gia tăng tỷ lệ phần trăm lớn nhất từ năm 2015-2016, với mức tăng lên đến 8,0%. Ngoài ra thì không có sự gia tăng đáng kể nào khác về mặt thống kê trong hai năm 2015-2016. Tỷ suất tử vong ở nhóm tuổi 75-79 và nhóm từ 90 tuổi trở lên tăng đáng kể từ năm 2014-2015, nhưng rồi từ năm 2015-2016 lại suy giảm, và cuối cùng lại trở về các mức tương tự với những năm trước đó (biểu đồ 2). Tử suất trẻ sơ sinh, mặc dù không được thể hiện trong biểu đồ 2, cũng giảm theo thời gian. Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin về tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh trên mạng.

Biểu đồ 2: Xu hướng tỷ suất tử vong theo độ tuổi cụ thể, tính theo từng nhóm tuổi, Anh, 2001-2016

tỷ lệ tử vong theo độ tuổi

Nguồn: Phân tích dữ liệu tử vong từ Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS) của PHE

Các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong năm 2016

Báo cáo Hồ sơ Y tế của Anh cho năm 2017 đã xác định bệnh tim cùng bệnh sa sút trí tuệbệnh Alzheimer là những nguyên nhân cơ bản hàng đầu gây tử vong ở nam giới và nữ giới. Trong năm 2016, điều này cũng không có gì thay đổi. (Bảng 1)

Danh sách các bệnh ung thư (ở vị trí cụ thể) phổ biến nhất vẫn không thay đổi từ năm 2015 với cả hai giới. Ung thư phổi, ung thư kết trực tràng và ung thư hậu môn, ung thư máu (bệnh bạch cầu) và ung thư hạch bạch huyết đều thuộc mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của năm 2016.

Ung thư tuyến tiền liệt và ung thư vú cũng nằm trong danh sách mười nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho nam giới và nữ giới, cả hai đều xếp ở vị trí thứ 7, tương tự như năm 2015. Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất thứ 3 cho nam giới, và là nguyên nhân phổ biến nhất thứ 6 đối với nữ giới trong năm 2016.

Khi những cái chết vì tất các loại ung thư được nhóm lại nhau, căn bệnh quái ác này chiếm 25,6% tổng số ca tử vong ở nữ giới và 30,3% tổng số ca tử vong ở nam giới trong năm 2016. Vì lí do này mà ung thư trở thành một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở cả hai giới.

Bảng 1: Nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nữ giới và nam giới, Anh, 2016

Nam giới Nữ giới
Xếp hạng Nguyên nhân Tỷ lệ (%)

của tổng số ca tử vong

Nguyên nhân Tỷ lệ (%)

của tổng số ca tử vong

1 Bệnh tim 13,6% Sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer 15,8%
2 Sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer 8,3% Bệnh tim 8,3%
3 Ung thư phổi 6.5% Đột quỵ 7.0%
4 Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính 6,1% Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính 5,8%
5 Đột quỵ 5,4% Bệnh cúm và viêm phổi 5,5%
6 Bệnh cúm và viêm phổi 4,8% Ung thư phổi 5,2%
7 Ung thư tuyến tiền liệt 4,1% Ung thư vú 3,8%
8 Ung thư kết trực tràng và ung thư hậu môn 3,1% Ung thư kết trực tràng và ung thư hậu môn 2,5%
9 Ung thư máu (bệnh bạch cầu) và ung thư hạch bạch huyết 2,6% Ung thư máu (bệnh bạch cầu) và ung thư hạch bạch huyết 1,9%
10 Chai gan và các bệnh gan khác 2,0% Bệnh thận và các bệnh khác liên quan đến hệ tiết niệu 1,8%

Nguồn: Hệ thống thông tin nhân lực trực tuyến quốc gia

Vào năm 2016, nguyên nhân chính khiến trẻ từ 1-9 tuổi ở cả hai giới tử vong là khuyết tật bẩm sinh (biểu đồ 3 và 4). Ung thư não, bệnh hô hấp cấp tính, ung thư máu (bệnh bạch cầu) và ung thư hạch bạch huyết cũng là những nguyên nhân phổ biến gây tử vong ở thanh thiếu niên dưới 20 tuổi. Tuy nhiên, số ca tử vong, vì nguyên nhân bất kỳ, trong thời thơ ấu là không nhiều, nên danh sách nguyên nhân hàng đầu thường thay đổi theo từng năm.

Tử suất trẻ sơ sinh không được bao gồm trong phân tích vì trường hợp tử vong dưới 28 ngày tuổi không ghi lại nguyên nhân gây tử vong cơ bản như những trường hợp tử vong từ ngày 28 trở đi. Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin về tử suất trẻ sơ sinh ở trên mạng.

Tử vong vì các yếu tố bên ngoài thống trị danh sách nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở những người dưới 50 tuổi trong năm 2016 (biểu đồ 3 và 4). Tự sát, bao gồm chấn thương và ngộ độc không rõ ý đồ/mục đích, là nguyên nhân gây tử vong chính ở nam giới và nữ giới từ 10-34 tuổi, và ở nam giới từ 35-49 tuổi. Khung kết quả y tế công cộng đã cho thấy rằng trong giai đoạn từ 2014-2016, có hơn 14.000 người chết vì tự sát, trong đó 75% là nam giới. Ngộ độc ngẫu nhiên xuất hiện trong tốp 5 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với nam giới và nữ giới tuổi từ 20-49 và nam giới từ 10-19 tuổi.

Nguyên nhân khiến những người từ 35 tuổi trở lên thiệt mạng trong năm 2016 hầu như cũng không thay đổi nhiều so với năm 2015 (biểu đồ 3 và 4). Bệnh tim, đột quỵ, ung thư và bệnh hô hấp là những thủ phạm chính đã cướp đi tính mạng của những người từ 50 tuổi trở lên ở cả hai giới.

Bệnh gan là một trong những nguyên nhân chính yếu gây ra nhiều ca tử vong ở nam giới và nữ giới từ 20-64 tuổi. Nữ giới ở trong độ tuổi từ 20-64 tử vong nhiều vì bệnh ung thư vú, còn nam giới thuộc hai nhóm tuổi 50-64 và 65-79 thường tử vong lần lượt vì bệnh ung thư kết trực tràng và ung thư hậu môn, và ung thư tuyến tiền liệt. Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong phổ biến thứ hai ở nam giới, và là nguyên nhân phổ biến nhất với nhóm phụ nữ từ 50-79 tuổi.

Với những người trên 80 tuổi, nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất ở cả hai giới là bệnh sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer (biểu đồ 3 và 4).

Biểu đồ 3: Những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu theo độ tuổi, nam giới, Anh, 2016

Tuổi Thứ 1 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5
1-9 Khuyết tật bẩm sinh Ung thư não Ung thư máu và ung thư hạch bạch huyết Bệnh cúm và viêm phổi Tai nạn giao thông
10-19 Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Tai nạn giao thông Giết người Ngộ độc ngẫu nhiên Ung thư máu và ung thư hạch bạch huyết
20-34 Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Ngộ độc ngẫu nhiên Tai nạn giao thông Giết người Bệnh gan
35-49 Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Bệnh tim Ngộ độc ngẫu nhiên Bệnh gan Đột quỵ
50-64 Bệnh tim Ung thư phổi Bệnh gan Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính Ung thư kết trực tràng và ung thư hậu môn
65-79 Bệnh tim Ung thư phổi Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính Đột quỵ Ung thư tuyến tiền liệt
Trên 80 Sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer Bệnh tim Bệnh cúm và viêm phổi Đột quỵ Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính

Nguồn: Hệ thống thông tin nhân lực trực tuyến quốc gia

Biểu đồ 4: Những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu theo độ tuổi, nữ giới, Anh, 2016

Tuổi Thứ 1 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5
1-9 Khuyết tật bẩm sinh Bệnh cúm và viêm phổi Tai nạn giao thông Ung thư não Các bệnh hô hấp cấp tính khác
10-19 Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Tai nạn giao thông Ung thư não Ung thư máu và ung thư hạch bạch huyết Khuyết tật bẩm sinh
20-34 Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Ngộ độc ngẫu nhiên Ung thư vú Bệnh gan Tai nạn giao thông
35-49 Ung thư vú Bệnh gan Ngộ độc ngẫu nhiên Tự sát và chấn thương hoặc ngộ độc không rõ ý đồ Bệnh tim
50-64 Ung thư phổi Ung thư vú Bệnh tim Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính Bệnh gan
65-79 Ung thư phổi Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính Bệnh tim Sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer Đột quỵ
Trên 80 Sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer Bệnh tim Đột quỵ Bệnh cúm và viêm phổi Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới mãn tính

Nguồn: Hệ thống thông tin nhân lực trực tuyến quốc gia

Lưu ý: Nhóm tử vong dưới 1 tuổi không được bao gồm trong phân tích này, vì chỉ có những trường hợp tử vong từ ngày tuổi thứ 28 trở lên mới được ghi chép vào giấy chứng tử bằng cách sử dụng Bảng Phân loại thống kê quốc tế về các bệnh tật và vấn đề sức khỏe liên quan (ICD-10) do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị. Những trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh (dưới 28 ngày tuổi) được đăng ký bằng cách sử dụng một loại giấy chứng tử đặc biệt cho phép báo cáo các bệnh chứng hoặc tình trạng liên quan đến cả trẻ sơ sinh lẫn người mẹ.

Trong nhóm tuổi trẻ nhất (từ 1-9 tuổi), tổng số ca tử vong (nam giới và nữ giới) rất thấp (630) và tổng số ca tử vong vì nguyên nhân nhất định cũng thấp tương tự; ví dụ, có 80 trẻ từ 1-9 tuổi tử vong vì khuyết tật bẩm sinh (47 bé trai và 33 bé gái).

Trong nhóm các bé gái ở độ tuổi từ 1-9, ung thư não và các bệnh hô hấp cấp tính khác đều xếp ở vị trí thứ tư trong danh sách những nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất.

Xu hướng trong các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu

Báo cáo Hồ sơ Y tế của Anh cho năm 2017 đã nêu ra những xu hướng trong nguyên nhân gây tử vong hàng đầu từ năm 2001-2015. Các phát hiện chính cho thấy một sự sụt giảm dài hạn trong tỷ suất tử vong vì bệnh tim, đột quỵ, và đa số các bệnh ung thư chính, đồng thời chỉ ra sự gia tăng tử suất vì sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer ở cả nam lẫn nữ. Báo cáo này sẽ cập nhật phân tích với dữ liệu của năm 2016 (từ biểu đồ 5 tới 8).

Biểu đồ 5 và 6 chỉ ra xu hướng trong tỷ suất tử vong vì sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer, bệnh tim và đột quy lần lượt với nam giới và nữ giới. Một số nhân tố góp phần vào tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và Alzheimer bao gồm sự gia tăng nhận thức về căn bệnh này, cũng như việc những chính sách mang tính lịch sử của Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) đã khuyến khích các bác sĩ đa khoa chẩn đoán thường xuyên hơn để rồi những ghi chép trên giấy chứng tử cũng xuất hiện ngày một nhiều. Điều này có nghĩa là, trong những năm gần đây, các trường hợp tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ có thể đã được xác định và phân loại cụ thể chứ không giống như trước kia.

Trong năm 2012, tỷ suất nữ giới tử vong vì sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer còn nhiều hơn là do bệnh tim. Chuỗi thời gian cho tử suất từ năm 2001-2016 đã được sử dụng như cơ sở để đưa ra những dự báo cho năm 2017-2023, và nó cho thấy rằng tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và Alzheimer có thể sẽ tiếp tục tăng (biểu đồ 5 và 6). Người ta ước tính rằng nếu tỷ suất tử vong vì bệnh tim tiếp tục giảm thì đến đầu năm 2020, nam giới sẽ tử vong vì các bệnh liên quan đến mất trí nhớ nhiều hơn là vì bệnh tim (biểu đồ 5).

Biểu đồ 5: Xu hướng trong tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi từ 3 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nam giới, Anh, 2001-2016 và dự báo cho năm 2017-2023

3 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Anh

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS)

Biểu đồ 6: Xu hướng trong tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi từ 3 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nữ giới, Anh, 2001-2016 và dự báo cho năm 2017-2023

3 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho nữ giới

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh (ONS)

Mặc dù xuất hiện những xu hướng lâu dài trong tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và Alzheimer, nhưng giai đoạn từ năm 2015-2016 đã chứng kiến sự sụt giảm trong tử suất của hầu hết các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở cả nam giới và nữ giới (biểu đổ 5 tới 8). Các trường hợp ngoại lệ là chai gan và bệnh gan ở nam giới tăng 2,9% (biểu đồ 7), và ung thư kết trực tràng cũng như ung thư hậu môn ở nữ giới tăng 1,1% (biểu đồ 8).

Bảng 1 đã nhấn mạnh ung thư phổi như nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất đứng thứ ba ở nam giới và phổ biến nhất đứng thứ sáu đối với nữ giới trong năm 2016. Mặc dù tử suất ở nam giới đã giảm, nhưng ở nữ giới lại có sự gia tăng tổng thể trong tỷ suất tử vong vì ung thư phổi từ năm 2001-2016 (biểu đồ 7 và 8). Trong giai đoạn từ năm 2015-2016, tỷ suất này ở nữ giới đã giảm nhẹ. Nhưng hiện giờ vẫn còn quá sớm để có thể khẳng định rằng đây là khởi đầu cho một xu hướng giảm tỷ suất tử vong vì ung thư phổi ở nữ giới.

Tỷ suất tử vong vì bệnh cúm và viêm phổi đều giảm ở cả hai giới kể từ năm 2001 (biểu đồ 7 và 8). Việc tiêm vắc-xin cúm đã được khuyến nghị cho những đối tượng nằm trong nhóm nguy cơ lâm sàng từ cuối thập niên 1960, nhưng sau đó đã được mở rộng để tất cả những người từ 65 tuổi trở lên cũng được tiếp cận vào năm 2000. Chương trình mở rộng dành cho trẻ em diễn ra vào năm 2013.

Đến năm 2015, tỷ suất tử vong vì bệnh cúm và viêm phổi lại tăng. Hiệu quả vắc-xin thấp được chứng kiến vào mùa đông năm 2014-2015, phản ánh sự không tương xứng giữa các loại virus đang lưu hành và chủng virus chính đã được đưa vào công thức vắc-xin cúm.

Xu hướng trong tỷ suất tử vong vì bệnh hô hấp mãn tính ở nam giới từ 2001-2016 đã cho thấy sự suy giảm tổng thể, tuy nhiên, đã có sự thay đổi về xu hướng so với cùng kỳ năm ngoái (biểu đồ 7). Ở nữ giới, tỷ suất này cũng biến động và tăng vọt vào năm 2015.

Biểu đồ 7: Xu hương tử vong chuẩn hóa theo tuổi từ các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nam giới, Anh, 2001-2016

các nguyên nhân gây tử vong khác ở nam giới

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh

Biểu đồ 8: Xu hương tử vong chuẩn hóa theo tuổi từ các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nữ giới, Anh, 2001-2016

nguyên nhân gây tử vong khác ở nữ giới

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh

Ảnh hưởng của nguyên nhân gây tử vong với xu hướng tuổi thọ trung bình

Chúng tôi đã từng bàn về ảnh hưởng của những trường hợp tử vong theo các nhóm tuổi khác nhau đối với những thay đổi trong tuổi thọ trung bình theo thời gian. Lần này, chúng tôi sẽ xem xét những tác động của các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với việc tăng tuổi thọ trung bình trong 3 giai đoạn 6 năm từ 2001-2016. Tuổi thọ trung bình ở nam giới và nữ giới tăng lần lượt 3,6 và 2,5 năm từ năm 2001-2016.

Trong giai đoạn 2001-2006, tỷ suất tử vong vì một số nguyên nhân giảm đã dẫn đến mức tăng 1,5 năm trong tuổi thọ trung bình của nam giới. Các yếu tố đóng góp nhiều nhất vào việc tăng tuổi thọ trung bình là sự giảm thiểu tử suất vì các bệnh như bệnh tim (tăng thêm khoảng 0,7 năm), đột quỵ (tăng 0,2 năm) và các nguyên nhân khác (tăng 0,3 năm) (biểu đồ 9).

Từ năm 2006-2011, tuổi thọ trung bình của nam giới tăng 1,6 năm. Một lần nữa, những yếu tố đóng góp lớn nhất vẫn là sự giảm thiểu tỷ suất tử vong vì bệnh tim, đột quỵ và các nguyên nhân khác với các mức tăng tuổi thọ trung bình lần lượt là 0,6, 0,2 và 0,6 năm. Sự gia tăng tuổi thọ trung bình đã được bù trừ 0,1 năm do tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer tăng (biểu đồ 9).

Trong giai đoạn từ 2011-2016, tuổi thọ trung bình của nam giới tăng 0,4 năm. Các mức giảm tỷ suất tử vong vì bệnh tim vẫn ảnh hưởng tích cực đến tuổi thọ trung bình khi làm tăng thêm 0,3 năm, nhưng so với những năm trước đó thì mức đóng góp lần này ít hơn nhiều. Tỷ suất tử vong vì bệnh sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer tiếp tục bù trừ các mức tăng tuổi thọ trung bình, nhưng ảnh hưởng lần này lớn hơn so với giai đoạn trước với khoảng bù trừ lên tới 0,2 năm (biểu đồ 9).

Nhóm “khác” bao gồm các trường hợp tử vong do nhiều nguyên nhân khác nhau và quá trình nghiên cứu thêm không tiết lộ nguyên nhân bổ sung góp phần vào sự thay đổi tuổi thọ trung bình ở nam giới.

Biểu đồ 9: Ảnh hưởng của những nguyên nhân gây tử vong đối với sự thay đổi trong tuổi thọ trung bình ở nam giới, Anh, 2001-2006, 2006-2011, 2011-2016

những đóng góp khác nhau vào việc tăng tuổi thọ của nam giới Anh quốc

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh

Từ năm 2001-2006, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của nữ giới đã tăng 1,1 năm. Những yếu tố đóng góp lớn nhất vào sự gia tăng tuổi thọ trung bình là các mức giảm tỷ suất tử vong vì bệnh tim (thêm 0,5 năm), đột quỵ (thêm 0,2 năm) và các nguyên nhân khác (thêm 0,3 năm) (biểu đồ 10).

Trong giai đoạn 2006-2011, tuổi thọ trung bình của nữ giới tăng 1,3 năm. Các yếu tố đóng góp nhiều nhất vẫn là sự suy giảm trong tỷ suất tử vong vì bệnh tim (0,4 năm), đột quỵ (0,2 năm), bệnh cúm và viêm phổi (0,2 năm), cùng các nguyên nhân khác (0,5 năm).  Mức tăng tuổi thọ trung bình bị bù trừ 0,2 năm vì sự gia tăng tỷ suất tử vong vì sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer (biểu đồ 10).

Đến năm 2016, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nữ giới là bệnh sa sút trí tuệ và Alzheimer (bảng 1). Ảnh hưởng của tỷ suất tử vong tăng do các bệnh này đối với tuổi thọ trung bình trong giai đoạn từ năm 2011-2016 được biểu thị ở biểu đồ 10. Tỷ suất tử vong tăng vì sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer đã bù trừ 0,3 năm trong mức tăng tuổi thọ trung bình. Sự thuyên giảm tử suất vì bệnh tim đóng góp nhiều nhất vào tuổi thọ trung bình (thêm 0,2 năm), nhưng mức đóng góp này vẫn nhỏ hơn so với các năm trước đó, và tuổi thọ trung bình của nữ giới chỉ cải thiện 0,1 năm từ năm 2011 tới 2016.

Nhóm “khác” bao gồm những trường hợp tử vong vì nhiều nguyên nhân khác nhau và quá trình nghiên cứu thêm không tiết lộ được nguyên nhân bổ sung góp phần vào sự thay đổi trong tuổi thọ trung bình ở nữ giới.

Biểu đồ 10: Ảnh hưởng của những nguyên nhân gây tử vong đối với sự thay đổi trong tuổi thọ trung bình ở nữ giới, Anh, 2001-2006, 2006-2011, 2011-2016

tình trạng bệnh được cải thiện giúp nữ giới tăng tuổi thọ ở Anh quốc

Nguồn: Phân tích của PHE về dữ liệu tử vong của Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh

Tử vong sớm (chết yểu)

Biểu đồ 11 mô tả xu hướng trong tỷ suất tử vong sớm (ở những người dưới 75 tuổi) vì mọi nguyên nhân, và hai trong số nguyên nhân gây tử vong chính với những người chưa đến 75 tuổi, bệnh tim mạch (bệnh tim và đột quỵ) và ung thư. Vì số ca tử vong do những nguyên nhân nói trên ở những người dưới 75 tuổi là tương đối ít và hay có sự thay đổi đáng kể từ năm này qua năm khác, nên dữ liệu được xem xét trên cơ sở trung bình định kỳ 3 năm.

Tỷ suất tử vong của những người dưới 75 tuổi giảm đều đặn. Từ giai đoạn 2001-2003, tỷ suất tử vong sớm tổng thể giảm 28% đối với nam, và 24% với nữ trong giai đoạn từ năm 2014-2016. Tuy nhiên, các mức giảm trong tỷ suất tử vong sớm lại chậm lại từ năm 2011-2013 với cả hai giới (biểu đồ 11).

Tỷ suất tử vong vì bệnh tim mạch với những người từ 75 tuổi trở xuống đã giảm gần một nửa từ năm 2001-2003 (biểu đồ 9). Tuy nhiên, từ năm 2014-2016, có tới hơn 100.000 người dưới 75 tuổi tử vong vì bệnh tim mạch, chiếm đến 22% tổng số ca tử vong sớm. Hồ sơ Y tế của Anh cho năm 2017 đã báo cáo rằng các yếu tố nguy cơ hành vi chẳng hạn như chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, hút thuốc và ít hoạt động thể chất, cùng với huyết áp cao, chỉ số khối cơ thể cao (thừa cân, béo phì) cũng như nồng độ cholesterol cao là những nhân tố chính dẫn đến bệnh tim mạch. Vì vậy, trong số những trường hợp tử vong sớm thì có một tỷ lệ lớn là có thể ngăn chặn được. Hiện nay có rất nhiều nguồn thông tin về các xu hướng trong những yếu tố nguy cơ này mà bạn có thể tham khảo thêm trên mạng.

Tỷ suất tử vong vì ung thư ở những người dưới 75 tuổi đã giảm so với cùng kỳ năm ngoái ở cả hai giới, 21% ở nam giới và 17% ở nữ giới kể từ giai đoạn 2001-2003. Khi tất cả các loại bệnh ung thư được gộp lại, chúng trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu với những người từ 75 tuổi trở xuống, chịu trách nhiệm cho gần 187.500 số ca tử vong trong giai đoạn 2014-2016. Giống như bệnh tim mạch, các yếu tố nguy cơ hành vi cũng góp phần không nhỏ vào nguy cơ bị ung thư, trong đó thì hút thuốc là yếu tố có tác động lớn nhất.

Biểu đồ 11: Xu hướng trong tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo độ tuổi ở những người từ 75 tuổi trở xuống, nam giới và nữ giới, 2001-2003 đến 2014-2016, Anh

nguyên nhân gây tử vong sớm ở cả nam và nữ

Nguồn: Khung kết quả y tế công cộng

Tử vong sớm ở những người bị tâm thần nghiêm trọng (SMI)

Tỷ suất tử vong sớm ở những người bị SMI chẳng hạn như rối loạn lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt cao hơn những 3,7 lần so với dân số nói chung trong năm tài chính 2014-2015. Khoảng cách này đã được nới rộng trong những năm gần đầy (từ 3,3 lần trong năm tài chính 2009-2010), chủ yếu là bởi các mức tăng trong tỷ suất tử vong của những người bị SMI.

Tỷ suất tử vong sớm ở những người bị SMI cao hơn dân số nói chung vì rất nhiều nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, bao gồm bệnh tim, ung thư, bệnh hô hấp, và các bệnh về gan. Trong giai đoạn từ 2014-2015, tỷ suất tử vong vì bệnh hô hấp và bệnh gan của những người bị SMI cao hơn lần lượt là 4,7 và 5,0 lần. Tuy nhiên, giống như dân số nói chung, tỷ suất tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư của người bị SMI cũng cao hơn các nguyên nhân khác.

Những phát hiện này đã phần nào phản ánh mức độ hút thuốc và lạm dụng chất gây nghiện gồm cả rượu bia cao hơn ở những người bị SMI.

Tử vong do dùng sai/lạm dụng thuốc

Số lượng và tỷ suất tử vong do dùng sai thuốc (dùng thuốc cho mục đích không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý hoặc y tế, hay dùng thuốc không theo khuyến cáo của bác sỹ và nhà sản xuất) đã tăng cao trong những năm gần đây. Ở Anh, có gần 2.400 người chết vì dùng sai thuốc trong năm 2016, tăng 3,6% so với năm trước, và tăng 60% kể từ năm 2012 (Hình 12).

Sự gia tăng này đã được chứng minh là có liên quan đến việc dùng heroin và thuốc giảm đau nhóm opioid, và số ca tử vong vì heroin đã tăng gấp đôi trong giai đoạn từ 2012-2016. Hai yếu tố đã được xác định có thể chịu trách nhiệm cho việc này là: sự gia tăng tình trạng có sẵn cũng như độ tinh khiết của heroin, cùng với việc ngày càng có nhiều người thuộc nhóm dân số đang lão hóa với tình trạng sức khỏe yếu kém hơn sử dụng heroin. Ngoài ra, các mức tăng đột biến về tỷ lệ tử vong liên quan đến việc sử dụng thuốc fentanyl trái phép cũng đã được xác định. PHE đã công bố cẩm nang hướng dẫn để hỗ trợ các khu vực địa phương giải quyết vấn đề này. Dữ liệu mới cho năm 2017 chỉ ra rằng số lượng và tỷ suất tử vong do dùng sai thuốc đã giảm nhẹ từ năm 2016, mức giảm đầu tiên trong vòng 5 năm.

Việc dùng sai/lạm dụng thuốc có thể khiến các cá nhân phát triển bệnh tâm thần, hoặc làm các triệu chứng của bệnh tâm thần trở nên trầm trọng hơn. Với một số bệnh, mối quan hệ này mang tính chất hai chiều, tức là sức khỏe tâm thần mà kém thì có thể dẫn đến việc dùng sai/lạm dụng thuốc và ngược lại. Trong số những người tiếp cận với dịch vụ thuốc kích thích thì có khoảng 70% là đã gặp vấn đề với sức khỏe tâm thần, và có hơn một nửa (54%) số vụ tự tử ở những bệnh nhân tiếp cận với dịch vụ sức khỏe tâm thần là xảy ra ở những người có tiền sử dùng sai thuốc kích thích hoặc lạm dụng rượu bia.

Biểu đồ 12: Xu hướng trong số lượng người chết và tỷ suất tử vong chuẩn hóa theo tuổi liên quan đến việc dùng sai thuốc, người, Anh, 2001-2016

số người chết liên quan đến việc dùng sai thuốc

Nguồn: ONS

Tử vong vì các bệnh thần kinh

Các bệnh liên quan đến thần kinh là hậu quả của việc não, cột sống hay dây thần kinh bị tổn thương do bệnh tật hoặc chấn thương. Năm 2014, có gần 32.000 người từ 20 tuổi trở lên tử vong với một tình trạng thần kinh được đề cập trong giấy chứng tử của họ, chiếm 7% tổng số ca tử vong ở Anh. Các tình trạng cụ thể được liệt kê trong mục Phương pháp, dữ liệu và định nghĩa. Chỉ có một nửa số trường hợp tử vong nói trên là liệt kê một bệnh thần kinh như nguyên nhân gây tử vong thực, số còn lại liệt kê các tình trạng liên quan đến thần kinh là nguyên nhân gây tử vong phụ.

Số người chết vì bệnh thần kinh là yếu tố chính hoặc yếu tố phụ (yếu tố bổ sung) đã tăng tới 39% trong giai đoạn 2001-2014.

Có khả năng là đã có một số nhân tố góp phần vào sự gia tăng này. Điều này bao gồm sự giảm thiểu tử suất vì các nguyên nhân hàng đầu khác (dẫn đến lão hóa dân số) và nhiều bệnh thần kinh được xác định hơn trong dân số già hóa. Tuy nhiên, việc các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cải thiện công tác phát hiện và chẩn đoán, hơn nữa còn có nhận thức sâu rộng hơn về các bệnh thần kinh cũng đóng góp ít nhiều vào sự gia tăng này.

Ngoài sự gia tăng số lượng người chết, tỷ suất tử vong vì bệnh thần kinh bất kỳ cũng tăng từ 71,0/100.000 dân số trong giai đoạn 2003-2005 lên 79,8/100.000 dân số từ năm 2012-2014, mức tăng 12%.

So sánh với châu Âu

Nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật Toàn cầu (GBD) năm 2016 sử dụng tỷ suất được chuẩn hóa theo tuổi của số năm sống bị mất đi do tử vong sớm (YLL) để đo gánh nặng tử vong sớm của dân số một quốc gia. Nó chỉ ra một dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của bệnh tật đối với tuổi thọ. Sau đây, chúng tôi xin được cập nhật phần phân tích được trình bày trong Hồ sơ Y tế của Anh cho năm 2017.

Trong số 28 quốc gia của Liên minh châu Âu (EU), trong năm 2016, gánh nặng tử vong sớm của nam giới ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cao hơn nước có gánh nặng thấp nhất là Luxembourg những 18%. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được xếp hạng là quốc gia có gánh nặng thấp nhất đứng thứ 10 (nam giới) trong số 28 quốc gia EU, giống với năm 2015, và gánh nặng này thấp hơn đáng kể mức trung bình của EU (biểu đồ 13).

Gánh nặng tử vong sớm của nữ giới ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cao hơn 42% so với Tây Ban Nha, đất nước có gánh nặng thấp nhất. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland  được xếp hạng là quốc gia có gánh nặng thấp nhất thứ 18 (nữ giới) trong Liên minh châu Âu, không thay đổi so với năm 2015, và gánh nặng này cao hơn đáng kể mức trung bình của EU (biểu đồ 14).

Trong năm 2016, hơn một nửa gánh nặng tử vong sớm ở những quốc gia thuộc Liên minh châu Âu là do các bệnh ung thư và bệnh tim mạch (bệnh tim và đột quỵ) (Biểu đồ 13 và 14).

Đối với gánh nặng bệnh tim mạch của nam giới, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland giữ vị trí thấp nhất thứ 10. Gánh nặng này thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của EU, nhưng cao hơn quốc gia có gánh nặng thấp nhất là Pháp những 36%. Với gánh nặng ung thư của nam, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland xếp thứ 8. Gánh nặng này thấp hơn đáng kể mức trung bình EU, nhưng cao hơn Phần Lan 31%, quốc gia có gánh nặng thấp nhất (biểu đồ 13).

Gánh nặng bệnh tim mạch của nữ giới ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland giữ vị trí thấp nhất thứ 9 trong số các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, và thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của EU, nhưng cao hơn Pháp (nước có gánh nặng thấp nhất) những 49%. Tuy nhiên, với gánh nặng ung thư của nữ giới thì Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland lại đứng ở vị trí thứ 23, với mức gánh nặng cao hơn đáng kể so với mức trung bình EU, và cao hơn nước có gánh nặng thấp nhất là Tây Ban Nha đến 42% (biểu đồ 14).

Có thể thấy là ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thì các gánh nặng của nữ giới thường có thứ hạng thấp hơn của nam giới khi so với các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu. Tuy nhiên với gánh nặng tử vong sớm vì ung thư thì nam giới ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland  xếp thấp nhất thứ 8, trong khi nữ giới lại đứng ở vị trí thứ 23 trong năm 2016, cách biệt nhau những 15 bậc. Mặc dù gánh nặng ung thư của nam giới ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland lớn hơn so với nữ giới, nhưng căn bệnh này lại góp một phần cực kỳ đáng kể vào thứ hạng tổng thể thấp hơn của nữ giới ở quốc gia này so với nam giới trên toàn EU.

So với các nước còn lại thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (Bắc Ireland, Scotland, và Wales) thì Anh có gánh nặng tử vong sớm vì mọi nguyên nhân, vì bệnh tim và vì ung thư thấp nhất ở cả nam và nữ. Tuy nhiên, hầu hết những sự khác biệt này lại không đáng kể về mặt thống kê (không có ý nghĩa thống kê).

Biểu đồ 13: Tỷ suất chuẩn hóa theo tuổi của số năm sống bị mất đi do tử vong sớm, nam giới, EU và các nước thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, 2016

So sánh số năm tháng bị mất đi của nam giữa Anh và các nước khác thuộc Châu Âu

Nguồn: Nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật năm 2016

Biểu đồ 14: Tỷ suất chuẩn hóa theo tuổi của số năm sống bị mất đi do tử vong sớm, nữ giới, EU và các nước thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, 2016

So sánh số năm tháng bị mất đi của nữ giữa Anh và các nước khác thuộc Châu Âu

Nguồn: Nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật năm 2016

Thông tin bổ sung

Bài báo này tập trung vào các xu hướng tử vong theo độ tuổi, giới tính và nguyên nhân ở Anh. Tuy nhiên, tỷ suất tử vong của các quần thể khác nhau ở Anh cũng sẽ không giống nhau. Có sự khác biệt trong xu hướng tử vong liên quan đến địa vị kinh tế xã hội, dân tộc, khu vực địa lý và các yếu tố xã hội khác. Tỷ suất tử vong ở những khu vực thiếu thốn thường cao hơn, và các bạn có thể tìm thêm các nguồn thông tin để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa hệ quả sức khỏe và sự thiếu thốn nghèo khổ.

Xu hướng và nguyên nhân gây tử vong ở dân số cũng bị ảnh hưởng bởi một loạt yếu tố nguy cơ. Mô hình Gánh nặng bệnh tật toàn cầu (GBD) đã xác định được những yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi, trao đổi chất và môi trường góp phần gây tử vong ở mỗi nhóm tuổi và theo từng nguyên nhân. Các yếu tố nguy cơ góp phần vào tỷ lệ tử vong tổng thể cao nhất đã được liệt kê trong Hồ sơ Y tế của Anh cho năm 2017 bao gồm béo phì và hút thuốc lá. Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin về các yếu tố nguy cơ ở trên mạng.

(Theo Health profile for England: 2018 – người dịch: Tống Hải Anh, nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng)

Leave a Comment