Giới thiệu: Vitamin E và lợi ích phòng ngừa bệnh tật
Chức năng chính của vitamin E trong cơ thể là hoạt động như một chất chống ôxy hóa, làm sạch các electron lỏng lẻo – hay còn gọi là “các gốc tự do” – có thể gây hại cho tế bào.
Các chất chống ôxy hóa, bao gồm vitamin E, được công chúng chú ý vào những năm 1980, khi các nhà khoa học bắt đầu hiểu được rằng sự gây tổn hại của gốc tự do có liên quan đến các giai đoạn đầu của bệnh xơ vữa gây tắc nghẽn động mạch, và thậm chí còn có thể dẫn đến ung thư, giảm thị lực, và một số bệnh mãn tính khác.
Kể từ đó, các cuộc nghiên cứu đưa ra một số lời hứa về khả năng ngăn ngừa bệnh mãn tính của việc dùng vitamin E liều cao.

Các nguồn thức ăn cung cấp vitamin E
Theo Viện Y học thì người trưởng thành cần 15mg vitamin E/ngày. Dù việc bổ sung hàm lượng vitamin E được khuyến nghị bằng cách ăn theo chế độ nhiều hạt khô dinh dưỡng cùng các loại dầu tốt cho sức khỏe là khá dễ dàng, nhưng đa số người Mỹ lại thiếu hụt loại vitamin này. Dưới đây là danh sách các nguồn thực phẩm cung cấp nhiều vitamin E:
Thực phẩm | Phần ăn | Vitamin E
(alpha-tocopherol tính theo miligram) |
---|---|---|
Hạt hướng dương rang khô | ¼ cốc (60ml) | 8,4mg |
Hạnh nhân | 1 ounce (24 hạt, hoặc 28g) | 7,4mg |
Cải bó xôi nấu chín | 1 cốc (~240ml) | 6,7mg |
Dầu hoa rum | 1 thìa canh (~15ml) | 4,6mg |
Củ dền nấu chín | 1 cốc (~240ml) | 2,6mg |
Bí ngô đóng hộp | 1 cốc (~240ml) | 2,6mg |
Ớt chuông đỏ sống | 1 cốc (~240ml) | 2,4mg |
Măng tây nấu chín | 1 cốc (~240ml) | 2,2mg |
Cải búp nấu chín | 1 cốc (~240ml) | 2,1mg |
Cá kiếm nấu chín | 3 ounces (85g) | 2,1mg |
Xoài tươi | 1 quả | 1,9mg |
Quả bơ tươi (loại của Florida) | 1/4 quả | 2mg |
Bơ lạc | 1 thìa canh (~15ml) | 1,4mg |
Nguồn: Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng quốc gia phục vụ mục đích tham khảo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, Hàm lượng vitamin E của các thực phẩm được chọn.
Vitamin E và các bệnh về tim
Đã có một thời gian các loại thực phẩm bổ sung vitamin E được coi như là cách dễ dàng để ngăn ngừa bệnh tim. Các cuộc nghiên cứu quan sát hứa hẹn, bao gồm Nghiên cứu sức khỏe y tá và Nghiên cứu chuyên gia y tế, đã cho thấy rằng những người dùng thực phẩm bổ sung vitamin E (thường chứa 400 IU hoặc hơn) trong ít nhất hai năm có thể giảm được 20-40% nguy cơ bị bệnh tim mạch vành.
Tuy nhiên, kết quả của một số thử nghiệm ngẫu nhiên lại không chỉ ra được khả năng phòng ngừa các cơn đau tim hoặc tử vong thực sự của vitamin E giữa những người bị bệnh tim hoặc những người có nhiều nguy cơ mắc căn bệnh này. Trong Thử nghiệm phòng ngừa GISSI, kết quả thu được rất khác nhau nhưng đa phần đều không cho thấy được tác dụng ngăn ngừa bệnh tật sau hơn ba năm điều trị bằng vitamin E ở 11.000 nạn nhân sống sót sau khi bị lên cơn đau tim.
Kết quả từ thử nghiệm Đánh giá kết quả tim (HOPE) cũng không chứng minh được lợi ích của việc sử dụng thực phẩm bố sung vitamin E trong vòng bốn năm ở hơn 9.500 nam giới và nữ giới đã được chẩn đoán là bị bệnh tim hoặc có nguy cơ cao mắc căn bệnh này. Trong thực tế, khi thử nghiệm HOPE được kéo dài thêm bốn năm nữa, các nhà ngiên cứu đã phát hiện thấy rằng những tình nguyện viên tham gia nghiên cứu mà sử dụng vitamin E lại có nguy cơ bị suy tim cao hơn.
Dựa vào những nghiên cứu như vậy, Hiệp hội Tim mạch Mỹ đã kết luận rằng “dữ liệu khoa học không thể chứng minh tác dụng giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch của việc sử dụng thực phẩm bố sung chứa chất chống ôxy hóa [chẳng hạn như vitamin E].”
Rất có thể là với những người vốn đã bị bệnh tim hoặc có nguy cơ bị bệnh tim cao, việc sử dụng các loại thuốc như aspirin, thuốc chẹn beta, và thuốc ức chế men chuyển angiotensin đã làm ẩn hết tác dụng của vitamin E, và cũng có thể là vitamin E chỉ phát huy công dụng ở những người khỏe mạnh hơn. Nhưng nhiều thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về việc dùng thực phẩm bổ sung vitamin E ở nam giới và nữ giới khỏe mạnh cũng cho ra những kết quả khác nhau.
Trong Nghiên cứu sức khỏe phụ nữ, với hơn 40.000 nữ giới được theo dõi trong vòng 10 năm, việc bổ sung 600 IU vitamin E/ngày không giảm được đáng kể nguy cơ bị “các biến cố tim mạch nặng” (chẳng hạn như đau tim, đột quỵ, hoặc tử vong do tim mạch). Nhưng những phát hiện này cũng đem đến một số tin đáng khích lệ: Khi các biến cố tim mạch nặng được phân tích riêng rẽ, việc bổ sung vitamin E được cho là có khả năng làm giảm nguy cơ tử vong do tim mạch xuống 24%. Và nguy cơ bị các biến cố tim mạch nặng của phụ nữ ≥ 65 tuổi cũng giảm 26% nhờ vào việc bổ sung vitamin E. Một phân tích sau đó đã phát hiện thấy rằng nữ giới sử dụng thực phẩm bổ sung vitamin E cũng ít có nguy cơ bị đông máu nghiêm trọng ở chân và phổi hơn, những người có nguy cơ bị đông máu cao nhất cũng là những người nhận được nhiều lợi ích từ việc bổ sung loại vitamin này nhất.
Tuy nhiên, những thử nghiệm phòng ngừa bệnh tim ở người khỏe mạnh khác lại không được hứa hẹn như vậy. Thử nghiệm SU.VI.MAX chỉ ra rằng việc bổ sung vitamin liều thấp trong 7 năm (như một phần của thuốc chống ôxy hóa hàng ngày) giảm nguy cơ bị ung thư và tử vong vì nguy cơ bất kỳ ở nam giới, nhưng lại không cho thấy những lợi ích này ở nữ giới. Nghiên cứu sức khỏe bác sỹ, cuộc thử nghiệm kéo dài 8 năm theo dõi gần 15.000 người đàn ông trung niên mà phần lớn trong số đó không bị bệnh tim ở giai đoạn đầu của nghiên cứu, cũng thu về những kết quả đáng thất vọng. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung 400 IU vitamin E hai ngày một lần, cả dùng riêng lẫn dùng chung với vitamin C, đầu không đem lại bất cứ lợi ích nào giúp ngăn ngừa đau tim, đột quỵ, hoặc tử vong vì bệnh tim mạch.
Gần đây hơn lại có thêm bằng chứng cho rằng có thể vitamin E chỉ có tác dụng với các nhóm phụ của dân số nói chung: Chẳng hạn như một thử nghiệm dùng vitamin E liều cao ở Israel đã chỉ ra sự suy giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành đáng kể ở những người bị tiểu đường tuýp 2 có khuynh hướng mất cân bằng ôxy hóa do di truyền nghiêm trọng hơn. Do đó, chúng ta có thể tin rằng vẫn tồn tại mối liên hệ giữa vitamin E và khả năng ngăn ngừa bệnh tật.
Vitamin E và ung thư
Câu chuyện ngăn ngừa ung thư của vitamin E có phần tích cực hơn câu chuyện của vitamin E và các bệnh về tim. Nhìn chung thì các nghiên cứu quan sát vẫn chưa tìm thấy nhiều bằng chứng giúp chứng minh là vitamin E trong thực phẩm hoặc thực phẩm bổ sung có thể ngăn ngừa ung thư nói chung hay các loại ung thư cụ thể. Song, cũng lại có một số nghiên cứu quan sát và thử nghiệm lâm sàng chỉ ra rằng việc bổ sung vitamin E có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt tiến triển (giai đoạn nặng, khi ung thư lây lan sang các khu vực khác – advanced prostate) ở những người hay hút thuốc lá.
Các nhà điều tra đã hy vọng rằng Thử nghiệm ngăn ngừa ung thư bằng vitamin E và selen (SELECT) sẽ cung cấp nhiều câu trả lời rõ ràng hơn về vitamin E và ung thư tuyến tiền liệt. 18.000 nam giới tham gia thử nghiệm SELECT được chỉ định dùng theo một trong bốn phác đồ thuốc – vitamin E cùng với selen, vitamin E cùng với giả dược trấn an selen, selen với giả dược trấn an vitamin E, hoặc hai loại giả dược trấn an – và những người này sẽ được theo dõi từ 7-12 năm. Tuy nhiên, các nhà điều tra đã tạm dừng nghiên cứu vào năm 2008, khi các phân tích ban đầu cho thấy rằng vitamin E không cung cấp bất cứ lợi ích nào giúp ngăn ngừa ung thư nói chung và ung thư tuyến tiền liệt nói riêng. Mặc dù thử nghiệm đã kết thúc, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục theo dõi những nam giới tham gia. Trong năm 2011, họ báo cáo rằng nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới được chỉ định dùng vitamin E đã tăng 17%; không có sự gia tăng đáng kể nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt ở những người dùng vitamin E và selen.
Tuy bề ngoài của các kết quả này có vẻ rất đáng lo ngại, nhưng hai thử nghiệm lớn khác về vitamin E và ung thư tuyến tiền liệt lại cung cấp những kết quả trái ngược: Ví dụ như Thử nghiệm ngẫu nhiên Alpha tocopherol Beta Coraten mà đã theo dõi gần 30.000 nam giới hay hút thuốc người Phần Lan trong 6 năm. Nó cho thấy rằng so với nam giới chỉ dùng giả dược trấn an thì những người được chỉ định bổ sung vitamin E hàng ngày đã giảm được 32% nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt, và 41% nguy cơ tử vong vì bệnh này. Tác dụng ngăn ngừa của vitamin E sẽ phát huy mạnh mẽ hơn ở những người bị ung thư đã phát triển tới mức có thể phát hiện được bằng một bài kiểm tra lâm sàng. Trong khi đó thì Thử nghiệm sức khỏe bác sỹ lại cho rằng việc sử dụng thực phẩm bổ sung vitamin E không cung cấp lợi ích gì giúp giảm bớt nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt hay các loại ung thư khác.
Vì sao các phát hiện từ cuộc thử nghiệm SELECT về vitamin E và ung thư tuyến tiền liệt lại khác những nghiên cứu ban đầu đến vậy? Các nghiên cứu trước đây về vitamin E và ung thư tuyến tiền liệt phát hiện thấy những người nhận được lợi ích phòng ngừa lớn nhất là nam giới hút thuốc cũng như những người bị ung thư ở giai đoạn tiến triển hay ung thư nguy cấp. Tuy nhiên, trong thử nghiệm SELECT, có chưa đến 10% nam giới hút thuốc, và hầu hết đều được phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu, thông qua xét nghiệm máu đo mức kháng nguyên đặc hiệu với tuyến tiền liệt (PSA). Rất nhiều trường hợp ung thư tuyến tiền liệt cấp thấp và ở giai đoạn đầu nếu được xác định bằng xét nghiệm PSA sẽ không phát triển thành dạng ung thư giai đoạn tiến triển. Ngoài ra cũng có bằng chứng cho thấy rằng các tiến trình khác nhau có thể xảy ra trong những trường hợp ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm và muộn. Một thử nghiệm quy mô lớn về việc dùng thuốc chống ung thư tuyến tiền liệt đã phát hiện ra những tác dụng đối lập với ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn đầu và giai đoạn tiến triển.
Hãy nhớ rằng ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm, và bất cứ nghiên cứu nào tập trung vào sự phòng ngừa căn bệnh này cũng phải theo dõi nam giới trong một thời gian dài. Vì thử nghiệm SELECT kết thúc sớm, nên ta không có cách nào biết được rằng vitamin E có thể giúp phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt ở một số người nếu họ tiếp tục tham gia thử nghiệm trong một thời gian dài hay không. Rất ít trường hợp trong thử nghiệm SELECT là ung thư tuyến tiền liệt nguy cấp, nên việc lý giải những phát hiện của nó càng bị hạn chế.
Thực phẩm bổ sung vitamin E liệu có hại không?
Các báo cáo thường xuyên từ những nghiên cứu về thực phẩm bổ sung vitamin E đã nhấn mạnh một câu hỏi mà bao nhiêu năm nay các nhà nghiên cứu vẫn không ngừng tranh cãi: Liệu dùng thực phẩm bổ sung vitamin E liều cao có thể làm tăng nguy cơ tử vong hay không?
Các nhà nghiên cứu đã cố giải đáp câu hỏi này bằng cách kết hợp kết quả của nhiều nghiên cứu khác nhau. Trong một phân tích như vậy, các tác giả đã thu thập và tái phân tích dữ liệu từ 19 thử nghiệm lâm sàng về vitamin E, bao gồm thử nghiệm GISSI và HOPE; họ phát hiện thấy tỷ lệ tử vong cao hơn ở những thử nghiệm có bệnh nhân tiêu thụ hơn 400 IU vitamin E/ngày.
Tuy phân tích tổng hợp này đã thu hút được rất nhiều sự chú ý khi mới được công bố, nhưng những kết luận của nó vẫn còn rất nhiều hạn chế. Một số phát hiện chỉ được dựa vào những nghiên cứu rất nhỏ, và trong một vài thử nghiệm, vitamin E lại được kết hợp với beta-caroten liều cao mà bản thân loại chất hữu cơ này cũng liên quan đến nguy cơ tử vong. Hơn nữa, nhiều thử nghiệm về vitamin E liều cao có mặt trong phân tích này lại được tiến hành trên những người bị bệnh mãn tính, chẳng hạn như bệnh tim hoặc bệnh Alzheimer.
Ngoài ra, các nghiên cứu tổng hợp khác cũng đi đến những kết luận khác nhau. Do vậy, ta chưa thể biết chắc là những phát hiện này có áp dụng cho người khỏe mạnh hay không. Ví dụ như Nghiên cứu sức khỏe bác sỹ đã không tìm thấy bất kỳ điểm khác biệt nào trong tỷ lệ tử vong ở những người tham gia nghiên cứu mà dùng vitamin E với những người chỉ dùng giả dược trấn an.
Vitamin E và các bệnh mãn tính khác
Các nhà điều tra đã tìm hiểu xem thực phẩm bổ sung vitamin E có thể ngăn ngừa các bệnh mãn tính khác hay không, và những phát hiện trong trường hợp này cũng rất khác nhau:
Các bệnh thị lực liên quan đến lão hóa
Một thử nghiệm kéo dài 6 năm đã phát hiện ra rằng vitamin E, khi được kết hợp với vitamin C, beta caroten và kẽm, có thể cung cấp một số lợi ích phòng ngừa sự phát triển của bệnh thoái hóa điểm vàng liên quan tới tuổi già, nhưng không phải đục thủy tinh thể, ở những người có nhiều nguy cơ mắc phải căn bệnh này. Tuy nhiên, một mình vitamin E dường như lại không đem lại nhiều lợi ích giúp phòng chống hai căn bệnh này.
Chức năng nhận thức và bệnh thoái hóa thần kinh
Các nhà khoa học đang tìm cách tháo gỡ các khúc mắc liên quan đến nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer, Parkinson, và các bệnh khác về não bộ cũng như hệ thần kinh đã tập trung vào vai trò của gốc tự do trong sự phát triển của những căn bệnh này. Nhưng cho tới nay, vẫn chưa có nhiều bằng chứng cho thấy vitamin E có thể giúp ngăn ngừa hoặc cung cấp những lợi ích gì cho những người đang bị những căn bệnh này.
- Sa sút trí tuệ: Một số nghiên cứu tiền cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung vitamin E, đặc biệt là khi kết hợp với vitamin C, có thể phần nào cải thiện chức năng nhận thức hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và các dạng mất trí nhớ khác, trong khi các nghiên cứu khác lại không thể tìm ra những lợi ích như vậy. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng tình trạng suy giảm chức năng nhận thức dạng nhẹ để tiến triển thành bệnh Alzheimer sẽ mất rất nhiều năm, trong khi nghiên cứu này lại khá ngắn, nên ta vẫn chưa có kết luận dứt khoát về khả năng giảm bớt chứng mất trí nhớ của vitamin E.
- Bệnh Parkinson: Một số, nhưng không phải tất cả, nghiên cứu tiền cứu đã cho thấy rằng việc tiêu thụ hàm lượng vitamin E cao hơn từ chế độ dinh dưỡng – không phải từ các loại thực phẩm bổ sung liều cao – có khả năng làm giảm nguy cơ mắc bệnh Parkinson. Ở những người đang bị bệnh này, thực phẩm bổ sung vitamin E liều cao sẽ không làm chậm lại quá trình tiến triển của bệnh. Vì sao lại có sự khác biệt giữa vitamin E từ thức ăn và từ các loại thực phẩm bổ sung ư? Có thể là do các loại thức ăn giàu vitamin E như đậu hoặc đỗ chứa nhiều dưỡng chất giúp ngăn ngừa bệnh Parkinson hơn. Vẫn cần nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ việc này.
- Xơ cứng teo cơ một bên (ALS): Một nghiên cứu tiền cứu quy mô lớn theo dõi gần 1 triệu người trong vòng 16 năm đã phát hiện ra rằng những người thường xuyên bổ sung vitamin E có nguy cơ bị xơ cứng teo cơ một bên thấp hơn những người không bao giờ cung cấp vitamin E. Gần đây hơn lại có một phân tích kết hợp của nhiều nghiên cứu với hơn 1 triệu người tham gia chỉ ra rằng những ai bổ sung vitamin E càng lâu dài thì càng ít có nguy cơ bị ALS. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng về việc bổ sung vitamin E ở những người đang bị ALS lại thất bại trong việc tìm ra những lợi ích tương tự. Việc này có thể là do vitamin E có lợi trong phòng ngừa hơn là điều trị. Song, chúng ta vẫn cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu để có thể thực sự chắc chắn.
(Theo: Harvard T.H. Chan, người dịch: Tống Hải Anh – nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng)