Dinh dưỡng là một lĩnh vực phức tạp mà đã gặp không biết bao nhiêu phen khổ sở khi giới truyền thông tạo ra những tiêu đề khiêu khích, thường là để mở đầu cho những bài tóm tắt bị đơn giản hóa quá mức. Nếu bạn là một người tiêu dùng hiểu biết, luôn nắm bắt mọi tin tức về dinh dưỡng thì có thể bạn đã biết là không nên nhìn vào các tiêu đề “đao to búa lớn” để đánh giá chất lượng của cuộc nghiên cứu đang được báo cáo – cụ thể hơn là tìm hiểu kỹ lưỡng những phát hiện mới nhất trong bối cảnh của các bằng chứng có sẵn về chủ đề được nghiên cứu. Nhưng bạn có thể áp dụng phương pháp tiếp cận nào khi bản thân cuộc nghiên cứu, về mặt thiết kế, lại được cho là đã bao gồm các yếu tố trong bằng chứng hiện tại?
Thiết kế “nghiên cứu của nghiên cứu” này được gọi là một phân tích tổng hợp, kết hợp những phát hiện từ nhiều nghiên cứu đơn lẻ để tăng kích cỡ mẫu và sức mạnh thống kê. Trong điều kiện tốt nhất, một phân tích tổng hợp có thể là bản tóm tắt hữu ích của một lượng dữ liệu lớn nếu các nghiên cứu chất lượng cao với những nhóm người và phương thức nghiên cứu tương tự được sử dụng. Trong tình huống tệ nhất, nó có thể biến thành một mớ hỗn độn của những phát hiện từ các nghiên cứu khác biệt nhau đáng kể, về cơ bản thì nó giống với việc so sánh táo với cam mà đem lại kết luận vô nghĩa – hoặc thậm chí là gây hiểu lầm. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều phân tích tổng hợp thiếu sót trong khoa học dinh dưỡng trở thành tiêu đề trên các mặt báo bằng cách tạo ra những bản tóm tắt có vẻ dứt khoát về các chủ đề phổ biến; chúng làm khuấy động những cuộc tranh luận về các loại chất béo trong thực phẩm và bệnh tim cũng như mối liên hệ giữa tình trạng thừa cân và nguy cơ tử vong sớm, cùng các vấn đề khác. Nhận thức được sức mạnh của các tiêu đề định hướng khoa học, ngành công nghiệp thực phẩm cũng bắt đầu đầu tư vào kiểu nghiên cứu phân tích tổng hợp. Một đánh giá năm 2007 về hơn 100 nghiên cứu do ngành công nghiệp tài trợ đã chỉ ra rằng nguồn tài trợ có liên quan đáng kể đến kết luận của cuộc nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu dịch tễ học của Trường Y tế Công cộng Harvard, Tiến sỹ Eric Feigl-Ding cho biết: “Phân tích tổng hợp đã trở thành một trong những kiểu nghiên cứu có tầm ảnh hưởng nhất trong tài liệu nghiên cứu y sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến các hướng dẫn chăm sóc sức khỏe và chính sách quốc tế, từ hướng dẫn của Viện Y tế Quốc gia và Bộ Nông nghiệp Mỹ cho dến các dự đoán về gánh nặng y tế kinh tế toàn cầu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vì khả năng vận động chính sách công của kiểu nghiên cứu này, nên thường xuyên tồn tại những sự khuyến khích sai lệch để bóp méo các phương thức thực hiện phân tích tổng hợp, từ đó dẫn đến sự thiên lệch trong kết luận của chúng.”
Fiegl-Ding cùng đồng nghiệp tại Trường Y tế Công cộng Harvard và Đại học George Washington đã công bố khám phá của họ về việc sử dụng sai phân tích tổng hợp trong nghiên cứu dinh dưỡng trên ấn bản tháng 9/2017 của tạp chí JAMA (Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ), đồng thời xem xét một loạt thách thức khi kết hợp nhiều nghiên cứu với nhau – và thảo luận những tác động có thể xảy đến khi kết quả là sản phẩm của những phương thức sai lầm.
Vận dụng sai phân tích tổng hợp và cạm bẫy của kiểu nghiên cứu này
Nhìn chung, phân tích tổng hợp sẽ phát sinh vấn đề khi các cuộc nghiên cứu bao gồm quá nhiều biến thể: kiểu nghiên cứu khác nhau, phương thức nghiên cứu khác nhau, mẫu người tham gia khác nhau. Một vấn đề khác là sự thiên lệch trong việc lựa chọn, có nghĩa là, nếu các nghiên cứu nhất định bị bỏ qua (hoặc bao gồm) một cách cố ý trong phân tích, thì việc đó có thể dễ dàng xoay chuyển kết luận sang một hướng nhất định. Hệ quả của việc có quá nhiều sự khác biệt trong phân tích tổng hợp là các phát hiện cũng sẽ có nhiều biến thể lớn hơn, từ đó có thể khiến kết luận trở nên lệch lạc hoặc làm suy yếu một phát hiện quan trọng khác.
Theo các tác giả, việc áp dụng phân tích tổng hợp vào khoa học dinh dưỡng sẽ tạo ra thêm một số thách thức đặc biệt. Ví dụ, không giống thử nghiệm dùng thuốc khi mà các biện pháp can thiện thường có thể được so sánh với nhau, những thử nghiệm can thiệp dinh dưỡng lại khác nhau về phương pháp luận. Trong nghiên cứu quan sát, sự khác biệt trong thói quen dinh dưỡng cũng như việc báo cáo những thói quen ấy của các quần thể là rất lớn – điều này khiến công tác định lượng việc tiêu thụ nhiều loại thực phẩm và chất dinh dưỡng trở nên khó khăn. Các nhà nghiên cứu cũng có thể dùng nhiều phương thức khác nhau để đánh giá và báo cáo những hành vi dinh dưỡng.
Một thách thức chủ chốt khác trong nghiên cứu dinh dưỡng là việc đo lường ảnh hưởng của một số loại thực phẩm và dưỡng chất cụ thể trong bối cảnh các phần còn lại của chế độ dinh dưỡng. Vì “ảnh hưởng của việc tiếp xúc với một chế độ ăn uống bất kỳ còn phụ thuộc vào yếu tố được so sánh với sự tiếp xúc đó,” các tác giả lưu ý rằng các phân tích tổng hợp nên bao gồm một số nghiên cứu thích hợp mà chỉ chú trọng vào “một bộ so sánh” đơn lẻ (ví dụ, khi xem xét nguy cơ bị bệnh tim, tất cả nghiên cứu được bao gồm đều so sánh lượng thịt đỏ tiêu thụ với lượng tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc thực vật, thay vì kết hợp lẫn lộn các nghiên cứu so sánh thịt đỏ với các loại thịt khác).
Một điều quan trọng nữa mà chúng ta phải nhận ra là việc cắt giảm một loại thực phẩm cũng thường đồng nghĩa với việc tăng lượng tiêu thụ một loại thực phẩm khác lên. Nếu một số người tham gia nghiên cứu giảm lượng chất béo bão hòa mà họ tiêu thụ, thì liệu họ có ăn nhiều thực phẩm chứa chất béo không bão hòa, nhiều carbohydrate phức như rau củ quả và ngũ cốc nguyên cám hơn không, hay họ lại nạp vào cơ thể nhiều carbohydrate tinh luyện và đường đơn hơn? Vì tính chất phức tạp này, các tác giả cho rằng việc hiểu được ảnh hưởng của những sự thay thế cụ thể trong chế độ dinh dưỡng có thể “dẫn đến những phát hiện mạnh mẽ và chứa đựng nhiều thông tin hơn là tập trung vào ảnh hưởng của một dưỡng chất hay một loại thực phẩm duy nhất so với mọi thứ khác trong chế độ dinh dưỡng.”
Nhu cầu cải thiện
Vậy, phân tích tổng hợp có giúp ích trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của nghiên cứu dinh dưỡng không, hay chúng gây hại nhiều hơn là làm lợi? Theo Tiến sỹ Neal Barnard, Phó Giáo sư Y khoa tại Đại học George Washington và đồng tác giả của bài báo, điều đó còn tùy thuộc vào cách sử dụng và chất lượng của phương thức nghiên cứu:
Về lý thuyết, việc kết hợp các nghiên cứu với nhau sẽ tạo ra một quần thể rộng lớn hơn, vì vậy các phân tích tổng hợp sẽ có nhiều khả năng hơn bất cứ nghiên cứu đơn lẻ nào. Tuy nhiên, một số phân tích tổng hợp lại được gộp lại những nghiên cứu sử dụng các quần thể và phương thức tiến hành khác nhau, và sự biến thiên đó làm giảm khả năng của chúng, do đó mà những ảnh hưởng thực sự có thể bị bỏ lỡ. Bỗng nhiên, việc ăn chất béo bão hòa hoặc bị thừa cân có vẻ không còn nguy hiểm đến vậy nữa. Nhưng đó chỉ là tạo phẩm của một phương thức sai lầm, thiếu sót.
Vì các phân tích tổng hợp nhận được (và có thể sẽ còn tiếp tục nhận được) sự chú ý rộng rãi của các phương tiện truyền thông, và có khả năng ảnh hưởng tới chính sách y tế cũng như làm thay đổi thực hành lâm sàng, nên bài báo này sẽ cung cấp những gợi ý giúp đảm bảo cho mọi phân tích tổng hợp đạt được chất lượng tốt nhất trước khi chúng được công bố:
- Thực hiện quy trình đánh giá bởi các biên tập viên có chuyên môn với chủ đề này cũng như trong thiết kế phân tích tổng hợp.
- Yêu cầu các tác giả của phân tích tổng hợp xác nhận với tác giả của các nghiên cứu gốc rằng dữ liệu của họ đã được biểu thị một cách chính xác.
- Yêu cầu tác giả của phân tích tổng hợp chia sẻ phương pháp cũng như dữ liệu tóm tắt của họ.
- Bao gồm dữ liệu gốc ban đầu thay vì công bố dữ liệu tóm tắt.
- Tạo ra một cơ sở dữ liệu nhằm tích cực theo dõi mọi xung đột lợi ích của tất cả các nhà nghiên cứu đã có công trình được công bố/xuất bản.
Các đồng tác giả của bài báo và đồng nghiệp của họ cũng đang cố gắng tạo ra những hướng dẫn bổ sung dành cho việc tiến hành phân tích tổng hợp, cùng với các công cụ kỹ thuật số nhằm giải quyết một số hạn chế. Ngoài ra, quy trình đào tạo đặc biệt dành cho nhà báo cũng rất cần thiết, vì việc đó có thể giúp họ hiểu rõ kết quả của các phân tích tổng hợp và truyền tải thông điệp sức khỏe đến với công chúng một cách chính xác hơn.
Bác sĩ Walter Willett, đồng tác giả, đồng thời là Giáo sư Dịch tễ học và Dinh dưỡng của Trường Y tế Công cộng Harvard cũng nói thêm rằng: “Phân tích tổng hợp sẽ tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc tóm lược một khối lượng bằng chứng đồ sộ đang ngày một tăng trong hầu hết mọi lĩnh vực, và chính vì lý do này nên chúng ta cần phải cải thiện công tác tiến hành cũng như đánh giá những bản tóm tắt đó.”
(Theo: Harvard T.H. Chan, người dịch: Tống Hải Anh – nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng)