Người siêu vị giác và vị giác yếu: Bình thường có tốt hơn không?

Vị giác và khứu giác của chúng ta rõ ràng là có liên quan đến tình trạng sức khỏe tổng thể của chúng ta. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hương vị của thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định loại thực phẩm mà ta chọn ăn.

  • Hương vị của thực phẩm không phải thứ mà chúng ta thực sự cảm nhận, nhưng được hình thành trong bộ não của ta dựa vào thứ mà chúng ta nếm bằng miệng và ngửi bằng mũi của mình.
  • Vị, mùi, và hương vị khác nhau rõ rệt. Vị giác được xây dựng trong gen của chúng ta và có thể được quan sát ở trẻ sơ sinh trong vòng sáu tháng tuổi, trong khi đó thì việc nhận ra mùi là một trải nghiệm được học hỏi.
  • Có 5 vị được nhận biết rõ nhất: vị ngọt, vị mặn, vị chua, vị đắng, và vị umami (một vị mặn, đượm vị thịt). Ngoài ra, chất béo cũng đang ngày càng được công nhận như vị cơ bản thứ sáu.

Nước tăng lực

Nước tăng lực được quảng bá rộng rãi như những sản phẩm tăng năng lượng, cũng như tăng cường sự tỉnh táo tinh thần và hiệu quả thể chất. Bên cạnh vitamin tổng hợp, nước tăng lực là thực phẩm bổ sung phổ biến nhất được thanh thiếu niên và người trưởng thành Mỹ tiêu thụ. Nam giới từ 18-34 tuổi tiêu thụ nhiều nước tăng lực nhất, và gần 1/3 thanh thiếu niên từ 12-17 tuổi thường xuyên uống loại thức uống này.

Tầm quan trọng của vi khuẩn axit lactic trong thực phẩm lên men của châu Á

Tóm tắt

Vi khuẩn axit lactic đóng vai trò quan trọng trong nhiều loại thực phẩm lên men ở châu Á. Ngoài việc là thành phần chính trong Kimchi và các thực phẩm lên men khác, chúng còn được dùng để bảo quản những nguyên vật liệu thực phẩm ăn được thông qua quá trình lên men các nguyên liệu sống như là bia/rượu gạo, bánh gạo và cá bằng cách giải phóng các axit hữu cơ để kiểm soát các vi sinh vật gây thối rữa và tạo mầm bệnh.

Những vi khuẩn axit lactic này cũng cung cấp một môi trường chọn lọc, tạo điều kiện cho các vi sinh vật lên men và tạo ra những hương vị mong muốn trong vô số các thực phẩm lên men. Bài viết này bàn luận về vai trò của vi khuẩn axit lactic trong nhiều sản phẩm thực phẩm lên men không có nguồn gốc từ sữa ở châu Á cũng như là các tác dụng chức năng dinh dưỡng và sinh lý của chúng trong chế độ ăn uống của người dân châu lục này.

Ảnh hưởng của fluoride đối với sự phát triển thần kinh của trẻ

Trong nhiều năm liền, các chuyên gia sức khỏe đã không thể đi đến thống nhất về việc liệu fluoride trong nước uống có thể gây hại cho não bộ đang phát triển của người hay không. Như chúng ta đã biết thì nồng độ fluoride cực cao có thể gây nhiễm độc thần kinh ở người trưởng thành, và những tác động tiêu cực của nó đối với trí nhớ và khả năng học tập đã được báo cáo trong các nghiên cứu ở động vật gặm nhấm; song, cho đến nay vẫn có rất ít thông tin về ảnh hưởng của chất này đối với sự phát triển thần kinh của trẻ. Trong một phân tích tổng hợp, các nhà nghiên cứu từ Trường Y tế Công cộng Harvard (HSPH) và Đại học Y khoa Trung Quốc ở Thẩm Dương lần đầu tiên kết hợp 27 nghiên cứu với nhau, và đã phát hiện ra những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy rằng fluoride có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhận thức ở trẻ nhỏ. Dựa vào những phát hiện mới, các tác giả nói rằng nguy cơ này không nên bị bỏ qua, và rằng những cuộc nghiên cứu về tác động của fluoride đối với não bộ đang phát triển cần được tiến hành thêm.

Kiêng kị thức ăn: nguồn gốc và mục đích của chúng

Tóm tắt

Gần như mọi xã hội loài người đều có những kiêng kị liên quan đến thức ăn (food taboo). Đa số các tôn giáo đều liệt kê những loại thức ăn nào đó là phù hợp và không phù hợp cho người ăn. Các quy tắc và luật lệ ăn uống có thể chi phối những giai đoạn cụ thể trong cuộc đời của con người và có thể liên quan đến những sự kiện đặc thù như là kỳ kinh nguyệt, thai kỳ, sinh con, cho con bú và – trong các xã hội truyền thống – công cuộc chuẩn bị cho chuyến đi săn, trận chiến, đám cưới, đám tang, vân vân. Trên cơ sở đối chiếu so sánh, nhiều điều kiêng kị thức ăn dường như chẳng có ý nghĩa một chút nào, vì những thức ăn có thể bị xem là không thích hợp với một nhóm người này thì lại có thể được chấp nhận tuyệt đối bởi một nhóm người khác. Mặt khác, những kiêng kị thức ăn có lịch sử lâu đời và người ta liệu trước được một lời giải thích hợp lý cho sự tồn tại (và kéo dài) của những tập quán ăn uống nhất định trong một nền văn hóa nào đó. Thế nhưng, đây vẫn là một cách nhìn nhận gây nhiều tranh cãi và không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao con người lại thực hiện những kiêng kị thức ăn đó. Bài viết này muốn gợi lại hứng thú đối với nghiên cứu về cấm kị thức ăn và nỗ lực đưa ra lý giải theo chức năng luận (functionalist’s explanation). Tuy nhiên, để minh họa được một số phức tạp của những lý do khả dĩ dẫn đến kiêng kị thức ăn, tác giả đã chọn năm ví dụ, gồm kiêng kị thức ăn truyền thống ở xã hội Hindu và Do Thái chính thống cũng như là báo cáo về các phương diện hạn chế ăn uống trong các cộng đồng có lối sinh hoạt truyền thống là Malaysia, Papua New Guinea, và Nigeria. Dễ thấy bối cảnh y học hay sinh thái đằng sau nhiều điều cấm kị thức ăn, bao gồm một số điều cấm được xem như có nguồn gốc tôn giáo hoặc tâm linh. Một mặt, những điều cấm đoán này có thể hỗ trợ tiêu thụ hiệu quả hơn một nguồn thức ăn nào đấy; mặt khác chúng có thể tạo thành cơ hội bảo vệ đối với một nguồn thức ăn khác. Những kiêng kị thực phẩm, dù có đúng theo khoa học hay không, thường vốn được dùng dể bảo vệ cá nhân loài người, chẳng hạn như việc quan sát được rằng những loại dị ứng và trầm cảm nhất định có liên quan tới nhau có khả năng là nguyên nhân dẫn đến tuyên bố kiêng kị những loại thức ăn mà được xác định là các tác nhân gây ra các loại dị ứng đó. Hơn nữa, bất cứ kiêng kị thức ăn nào, được một nhóm người cụ thể nào đó thừa nhận như một bộ phận trong lối ăn uống, sẽ hỗ trợ gắn kết nhóm đó, giúp duy trì bản sắc của riêng nhóm người đó khi đối diện với những nhóm khác, và theo đó tạo ra cảm giác “hòa nhập, thuộc về” (sense of belonging).

Tìm hiểu về báo cáo cho rằng ăn thịt chế biến sẵn có thể gây ung thư của WHO

Tuần trước, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố rằng việc tiêu thụ thịt đã qua chế biến “gây ung thư ở người (Nhóm I),” và rằng việc tiêu thụ thịt đỏ “có thể gây ung thư ở người (Nhóm 2A).” Báo cáo này phân biệt hai loại thịt như sau:

  • Thịt đã qua chế biến (processed meat) là các loại thịt đã bị biến đổi bởi quá trình ướp muối, sấy khô, lên men, hun khói, hoặc qua các phương pháp xử lý khác để tăng hương vị hoặc để bảo quản được lâu hơn
  • Thịt đỏ (red meat) là thịt cơ bắp của động vật có vú mà chưa qua chế biến, chẳng hạn như thịt bò, thịt bê, thịt lợn, thịt cừu non (lamb), thịt cừu (mutton), thịt ngựa và thịt dê

Nghiên cứu sức khỏe y tá

Nếu bạn chăm theo dõi tin tức về dinh dưỡng trên các phương tiện truyền thông, rất có thể là bạn đã biết đến một số phát hiện từ một nghiên cứu thuần tập gọi là Nghiên cứu sức khỏe y tá (Nurses’ Health Studies). Nghiên cứu sức khỏe y tá (NHS) bắt đầu từ năm 1976, được dẫn đầu bởi các nhà nghiên cứu từ phòng thí nghiệm Channing của Bệnh viện Brigham và Phụ nữ, Trường Y Harvard, cùng Trường Y tế Công cộng Harvard, với nguồn tài trợ từ Viện Y tế Quốc gia (National Institutes of Health). Nghiên cứu này tập hợp những y tá chính quy trong độ tuổi từ 30-55 trên toàn nước Mỹ để tham gia trả lời các bảng câu hỏi. Các y tá được chọn cụ thể dựa vào khả năng hoàn thành hết các bảng câu hỏi liên quan đến sức khỏe, mà thường là rất chuyên môn, một cách kỹ lưỡng và chuẩn xác. Họ cho thấy động cơ tham gia vào cuộc nghiên cứu dài hạn mà đòi hỏi cứ hai năm một là phải trả lời các bảng câu hỏi thăm dò. Ngoài ra, nhóm y tá còn cung cấp máu, nước tiểu, cùng những mẫu xét nghiệm khác trong quá trình cuộc nghiên cứu được tiến hành.

Cách đọc nhãn thông tin dinh dưỡng trên bao bì thực phẩm

Mọi người xem nhãn thực phẩm vì những lý do khác nhau. Nhưng dù có là vì lý do gì thì nhiều người tiêu dùng sẽ muốn biết cách để sử dụng thông tin này hiệu quả và dễ dàng hơn. Những kỹ năng đọc nhãn dưới đây có mục đích khiến bạn sử dụng nhãn thông tin dinh dưỡng dễ dàng hơn nhằm đưa ra những lựa chọn thực phẩm nhanh chóng và sáng suốt mà góp phần tạo nên một chế độ ăn uống lành mạnh.

So sánh Đĩa ăn lành mạnh của Havard và Đĩa ăn của tôi của Bộ Nông nghiệp Mỹ

Đĩa ăn lành mạnh, do các chuyên gia của Trường Y tế Công cộng Harvard và Trường Y Harvard tạo ra, hướng người tiêu dùng đến những sự lựa chọn lành mạnh nhất trong các nhóm thực phẩm chính. Đĩa ăn của tôi do Bộ Nông nghiệp Mỹ khởi xướng, tuy đã được sửa đổi để phản ánh một số phát hiện chủ chốt, nhưng vẫn không cung cấp được bức tranh hoàn chỉnh nhất về lời khuyên dinh dưỡng cơ bản.