1. Tóm tắt sơ lược
Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với những người béo phì là hết sức phổ biến và gây ra vô số hậu quả với cả sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của những cá nhân này. Mặc dù khoa học đã ghi nhận sự kỳ thị đối với cân nặng nhiều thập kỷ qua, nhưng những ý nghĩa sức khỏe công cộng của nó vẫn chưa nhận được sự quan tâm chú ý đúng mực. Thay vào đó, những người béo phì lại bị đổ lỗi, chê trách vì cân nặng của họ, với những quan niệm phổ biến cho rằng kỳ thị cân nặng là một việc chính đáng và có thể thúc đẩy các cá nhân áp dụng những hành vi lành mạnh hơn. Chúng tôi xem xét các bằng chứng để giải quyết những giả định này và thảo luận về các ý nghĩa y tế công cộng của chúng. Trên cơ sở của những phát hiện hiện tại, chúng tôi cho rằng sự kỳ thị cân nặng không phải một công cụ y tế công cộng để giảm béo phì có lợi. Thay vào đó, việc kỳ thị những cá nhân bị béo phì lại đe dọa sức khỏe, tạo ra sự chênh lệch về sức khỏe, và gây trở ngại cho những nỗ lực can thiệp bệnh béo phì hiệu quả. Các phát hiện này không chỉ nhấn mạnh sự kỳ thị cân nặng như một vấn đề công bằng xã hội mà còn như một ưu tiên đối với lĩnh vực y tế công cộng.
Tình trạng tỏ thái độ tiêu cực với những người mắc bệnh béo phì đang lan tràn khắp xã hội Bắc Mỹ. Rất nhiều nghiên cứu đã ghi nhận những khuôn mẫu gây hại dựa vào cân nặng mà cho rằng những người thừa cân và béo phì là lười nhác, thiếu kiên quyết (weak-willed), không thành công, không thông minh, thiếu tính kỷ luật tự giác (hay khả năng kiềm chế ham muốn của bản thân), sức mạnh ý chí yếu kém, và không tuân thủ các phương pháp điều trị giúp giảm cân. Những khuôn mẫu này mở đường cho sự kỳ thị, định kiến, và phân biệt đối xử với những người béo phì trong nhiều lĩnh vực sống, bao gồm nơi làm việc, cơ sở chăm sóc sức khỏe, cơ sở giáo dục, truyền thông đại chúng, và ngay cả trong những mối quan hệ gần gũi giữa các cá nhân. Có lẽ vì sự kỳ thị cân nặng vẫn là một dạng thành kiến được xã hội chấp nhận, nên những thái độ và khuôn mẫu tiêu cực đối với người béo phì thường xuyên bị báo cáo bởi các nhà tuyển dụng/cấp trên, đồng nghiệp, giáo viên, bác sĩ, y tá, sinh viên y khoa, chuyên gia dinh dưỡng, các nhà tâm lý học, những người đồng trang lứa, bạn bè, thành viên trong gia đình, và thậm chí là ở những đứa trẻ mới chỉ 3 tuổi.
Những ước tính gần đây cho thấy rằng tỷ lệ phân biệt đối xử đối với cân nặng đã tăng lên 66% trong vòng một thập kỷ qua, và giờ tương đương với tỷ lệ phân biệt chủng tộc ở Mỹ. Mặc dù sự kỳ thị cân nặng luôn được các tài liệu ghi nhận là một vấn đề xã hội nhức nhối trong nhiều thập kỷ qua, nhưng dạng kỳ thị này hầu như vẫn không được thừa nhận ở xã hội Bắc Mỹ và những ý nghĩa y tế công cộng của nó chủ yếu bị bỏ qua. Thay vào đó, những sự quy kết xã hội phổ biến lại chê trách/đổ lỗi cho những những người béo phì vì thừa cân, với những quan niệm thường gặp như kỳ thị cân nặng là một việc chính đáng (và có thể là cần thiết) vì người béo phì tự chịu trách nhiệm cho cân nặng của họ, và rằng sự kỳ thị thậm chí có thể là một công cụ hữu ích giúp thúc đẩy người béo phì áp dụng những hành vi lối sống lành mạnh hơn.
Chúng tôi đã xem xét các bằng chứng hiện có để giải quyết những giả định về sự kỳ thị cân nặng này, và thảo luận các ý nghĩa y tế công cộng của chúng. Tài liệu về sự kỳ thị người béo phì đã được đánh giá tỉ mỉ kĩ lưỡng bởi những cá nhân khác, vì thế nên mục tiêu của chúng tôi là nêu bật các bằng chứng liên quan từ nghiên cứu này để kiểm nghiệm những ý nghĩa y tế công cộng của sự kỳ thị cân nặng, một vấn đề mà từ trước đến nay rất ít được quan tâm chú ý trong lĩnh vực béo phì.
Chúng tôi đã thu thập những bài báo được trích dẫn trong bài viết này thông qua công tác tìm kiếm tài liệu toàn diện trong các cơ sở dữ liệu y tế và khoa học xã hội được điện toán hóa, bao gồm PubMed, PsycINFO, và SCOPUS. Các thuật ngữ tìm kiếm được giới hạn thành nhiều tổ hợp từ khóa khác nhau đặc biệt liên quan đến các bộ mô tả (descriptor) cân nặng cơ thể và sự kỳ thị để xác định những nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa sự kỳ thị cân nặng và y tế công cộng, cùng với những hệ quả sức khỏe tinh thần và thể chất của sự kỳ thị người béo phì. Chúng tôi cũng tiến hành tìm kiếm bằng tay/thủ công đối với các tác giả và tạp chí cụ thể mà đã công bố những nghiên cứu có liên quan đến các chủ đề này. Ngoài ra, chúng tôi đã truy xuất được tài liệu tham khảo từ một bài đánh giá/phê bình hệ thống toàn diện gần đây về những nghiên cứu bình duyệt/do đồng nghiệp thẩm định (peer-review) chứng minh tình trạng thành kiến và kỳ thị đối với những người béo phì mà chúng tôi đã công bố gần đây. Hầu hết (87%) nghiên cứu mà chúng tôi đưa vào đều đã được xuất bản/công bố trong vòng một thập kỷ qua, ngoại trừ một số nghiên cứu được công bố trước đó sẽ được trích dẫn khi liên quan đến bối cảnh lịch sử của bài thảo luận hoặc để cung cấp 7 ví dụ về các nghiên cứu mốc/nghiên cứu mang tính bước ngoặt.
Trên cơ sở các bằng chứng hiện tại, chúng tôi kết luận rằng sự kỳ thị cân nặng không phải một công cụ y tế công cụ có lợi để giảm bớt béo phì hay cải thiện sức khỏe. Thay vào đó, việc kỳ thị những người bị béo phì thực chất lại gây ra những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần và thể chất của họ, tạo ra những sự khác biệt về sức khỏe, và cản trở việc thực hiện những nỗ lực phòng chống bệnh béo phì hiệu quả. Bằng chứng này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đề cập đến sự kỳ thị cân nặng như một vấn đề công bằng xã hội và như một ưu tiên trong các biện pháp can thiệp y tế công cộng để giải quyết vấn nạn béo phì.
2. Kỳ thị bệnh tật và y tế công cộng
Trong lĩnh vực y tế công cộng, sự kỳ thị là một kẻ thù quen thuộc. Xuyên suốt lịch sử, sự kỳ thị đã gây ra sự thống khổ, đau thương cho những nhóm dễ mắc bệnh và làm suy yếu những nỗ lực nhằm ngăn chặn sự tiến triển của các căn bệnh này. Sự kỳ thị bệnh tật xảy ra khi các nhóm bị đổ lỗi/chê trách vì bệnh tật của họ bởi họ bị coi như là vô đạo đức, dơ bẩn/ô uế, hoặc lười biếng. Ví dụ, vào thế kỷ thứ 19 ở Mỹ, người nhập cư Ireland thường bị cho là phải chịu trách nhiệm cho các dịch bệnh vì họ “bẩn và không chú ý đến vệ sinh công cộng.” Khi một số lượng lớn người nhập cư gốc Ireland bỏ mạng vì bệnh tả/thổ tả (cholera) và các bệnh khác, nhiều người coi cái chết của họ như sự quả báo đối với “những kẻ tội lỗi và không xứng đáng về mặt tâm linh.” Khi những người Mỹ gốc Phi thiệt mạng vì bệnh lao (tuberculosis) hồi đầu thế kỷ 20, thay vì nghiên cứu cách phòng ngừa hoặc điều trị căn bệnh này, giới chức của nhiều thành phố lại cảnh báo nhóm công dân da trắng của họ không được tiếp xúc hoặc thuê mướn người Mỹ gốc Phi. Ngay cả sự kỳ thị của những người sử dụng thuốc tiêm và những cá nhân mắc bệnh lậu (gonorrhea) cũng đã bị tố giác/lên án là rào cản đối với việc xét nghiệm và điều trị. Những ví dụ này đã phần nào giúp ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa của sự kỳ thị đối với y tế công cộng. Theo Herek cùng cộng sự:
Có đầy rẫy ví dụ lịch sử về sự kỳ thị can thiệp vào những phản ứng chung đối với các dịch bệnh từ thổ tả cho đến giang mai (syphilis). Trong tất cả các trường hợp này, cấu trúc xã hội của một căn bệnh bao gồm các đánh giá đạo đức về những trường hợp mà trong đó nó (căn bệnh) đã bị quy chụp cho, cùng với sự thù địch tồn tại từ trước, những nhóm được coi là dễ bị ảnh hưởng bởi nó nhất.
Trong trường hợp của HIV/AIDS, vai trò có hại của sự kỳ thị trở nên rõ ràng đến mức các chương trình nghị sự y tế quốc gia và quốc tế đã xác định một cách dứt khoát rằng chính sự kỳ thị cũng như phân biệt đối xử là những rào cản chính trong việc giải quyết hiệu quả dịch bệnh này. Ngay từ giữa những năm 1980, chỉ vài năm sau khi căn bệnh này lần đầu được xác định, sự phân biệt đối xử với những người có nguy cơ bị HIV/AIDS được chứng minh là phản tác dụng, và các chính sách y tế công cộng ban đầu đã phải bao gồm việc bảo vệ quyền riêng tư và bảo mật của bệnh nhân. Khi thực tế ngày càng trở nên rõ ràng rằng sự kỳ thị và phân biệt đối xử cũng là một trong những căn nguyên sâu xa dẫn đến tính dễ bị tổn thường/dễ mắc bệnh HIV/AIDS, Phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS đã thông qua Tuyên bố Cam kết vào năm 2001, cụ thể là cam kết các quốc gia “phát triển các chiến lược để chống lại tình trạng kỳ thị và bài xích xã hội liên quan đến dịch bệnh này.” Sau đó, sự kỳ thị và phân biệt đối xử được chọn làm chủ đề của Chiến dịch AIDS Thế giới 2002-2003. Vào năm 2007, Chương trình Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS đã ban hành báo cáo, Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với HIV: Một phần quan trọng của Chương trình AIDS Quốc gia, giúp cung cấp các chiến lược tập trung vào việc giảm thiểu tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử trong các phản ứng của một quốc gia đối với căn bệnh này. Những khuyến nghị từ báo cáo bao gồm việc cung cấp các hoạt động tài trợ và lên chương trình cho các phương pháp tiếp cận nhiều khía cạnh của quốc gia để làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với HIV.
Vì vậy, trong hệ tư tưởng y tế công cộng hiện nay, tồn tại một sự nhận thức rõ ràng về các rào cản quan trọng được sinh ra bởi sự kỳ thị bệnh tật. Bayer ghi chú rằng:
Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, một quan điểm được chia sẻ rộng khắp cho rằng việc kỳ thị những người vốn đã dễ tổn thương cung cấp một bối cảnh mà trong đó bệnh tật liên tục lây lan, khiến bệnh tình ngày một trầm trọng và tỷ lệ tử vong cũng vì thế mà cao hơn… Theo quan điểm này, các nhân viên y tế công cộng phải có trách nhiệm chống lại sự kỳ thị nếu họ muốn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe của cả cộng đồng.
Ngược lại, sự kỳ thị người béo phì vẫn chưa được giải quyết/đề cập đến như một mối quan tâm chính đáng mà đòi hỏi sự chú ý của những người đang làm việc để chống lại căn bệnh này, và hiếm khi được thảo luận trong bối cảnh y tế công cộng. Trong thực tế, sự kỳ thị cân nặng còn được một số người đề xuất như phương pháp kiểm soát bệnh béo phì. Sự thiếu quan tâm chú ý đến tình trạng kỳ thị cân nặng vẫn tồn tại dai dẳng bất chấp gần 5 thập kỷ nghiên cứu khoa học chứng minh tình trạng này cùng với hậu quả của nó đối với những người béo phì. Sự vắng mặt của nó đã được ghi nhận vào những năm 1960 khi nghiên cứu về tình trạng kỳ thị xuất hiện lần đầu. Vào năm 1968, Cahnman đã xuất bản một bài báo với tựa đề “Sự kỳ thị đối với bệnh béo phì,” trong đó ông viết:
Bệnh béo phì hiếm khi xuất hiện trong các tác phẩm của những nhà xã hội học, và chưa một lần được nhắc đến trong các tài liệu về sự lệch lạc xã hội. Sự thiếu sót này thật khó tin… Rõ ràng là trong kiểu xã hội của chúng ta, cùng với những áp lực của nó với sự giàu có và tính cơ động xã hội (social mobility), thừa cân sẽ bị coi là một mối nguy cho sức khỏe, một nhược điểm về ngoại hình, và một nỗi ô nhục với xã hội.
Gần 50 năm sau và thiếu sót này vẫn còn tồn tại. Ngay cả khi tỷ lệ béo phì đã gia tăng đáng kể thì tình trạng kỳ thị cân nặng vẫn hiếm khi, thậm chí là không bao giờ, có khả năng được nhận sự công nhận hay biện pháp can thiệp tương tự như những sự kỳ thị bệnh khác.
Mặc dù có một sự đồng thuận đáng kể cho rằng sự kỳ thị đang ngầm hủy hoại y tế công cộng, nhưng nguyên tắc này chưa được áp dụng cho đại dịch béo phì. Những giả định tồn tại phổ biến trong xã hội về bệnh béo phì, bao gồm quan niệm cho rằng những người béo phì phải tự chịu trách nhiệm cho cân nặng của họ, đã góp phần dẫn đến sự coi thường/xem nhẹ tình trạng kỳ thị cân nặng và ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe thể chất cũng như tinh thần. Một thử nghiệm về những giả định này dựa trên các bằng chứng khoa học hiện tại chỉ ra rằng sự kỳ thị người béo phì đã tạo ra những rào cản lớn trong nỗ lực giải quyết bệnh béo phì và xứng đáng được thừa nhận/công nhận trong các chương trình nghị sự về y tế công cộng.
3. Chống lại những giả định làm kéo dài tình trạng kỳ thị cân nặng
Các cấu trúc xã hội về trọng lượng/cân nặng cơ thể đã ăn sâu vào cách xã hội chúng ta nhìn nhận và phản ứng với bệnh béo phì. Theo Herek, ý nghĩa xã hội của bệnh tật liên quan đến việc quy kết trách nhiệm và đổ lỗi, để những người mắc bệnh bị coi là nạn nhân hoặc thủ phạm. Thường thì xã hội không coi những người béo phì là nạn nhân vô tội, mà nhìn nhận họ như những người tự gây ra tình trạng sức khỏe yếu kém của bản thân, và phải chịu trách nhiệm cá nhân cho mọi vấn đề về cân nặng của họ vì lười nhác và ăn quá nhiều. Những giả định thường gặp này cung cấp nền tảng cho sự kỳ thị cân nặng, một định kiến thường được cho là chấp nhận được và cần thiết. Không chỉ có sự kỳ thị cân nặng được coi như động cơ thúc đẩy/khuyến khích giảm cân, mà người ta còn cho rằng tình trạng béo phì nằm trong sự kiểm soát của mỗi cá nhân, ý nói rằng ảnh hưởng xã hội đối với sự kỳ thị cân nặng là đủ để tạo ra sự thay đổi.
Mặc dù những giả định về béo phì và kỳ thị cân nặng này cực kì phổ biến trong tư duy quốc gia của chúng ta, nhưng các bằng chứng khoa học đáng kể đã xuất hiện để thách thức chúng. Để tối ưu hóa các nỗ lực can thiệp và phòng chống béo phì, những giả định này phải được giải quyết trong phạm vi y tế công cộng, với việc thừa nhận tác động có hại của sự kỳ thị cân nặng đối với chất lượng cuộc sống và sự cần thiết của việc loại bỏ tình trạng kỳ thị khỏi các cách tiếp cận y tế công cộng hiện tại và tương lai đối với đại dịch béo phì. Chúng tôi sẽ trình bày các bằng chứng khoa học liên quan đến những giả định xã hội này.
Những nhận thức sai lầm trầm trọng
Những sự quy kết xã hội về các nguyên nhân gây béo phì đã đóng góp đáng kể vào những biểu biện của tình trạng kỳ thị cân nặng. Các nghiên cứu thực nghiệm trong tâm lý học đã chứng minh một cách nhất quán rằng những người béo phì bị kỳ thị vì cân nặng của họ được cho là kết quả của các yếu tố nằm trong sự kiểm soát cá nhân (chẳng hạn như ăn quá nhiều và không tập thể dục). Hơn 2 thập kỷ trước, Weiner cùng cộng sự lần đầu đánh giá mối quan hệ giữa nhận thức về trách nhiệm cá nhân với việc kỳ thị bệnh tật, và phát hiện ra rằng các bệnh được đánh giá thấp về trách nhiệm cá nhân (đơn cử như bệnh Alzheimer) lại được đánh giá cao về ý thích, và khơi gợi lòng thương cùng ý định giúp đỡ của người khác. Tuy nhiên, những cá nhân mắc các bệnh bị kỳ thị mà có xếp hạng cao về trách nhiệm cá nhân (chẳng hạn như béo phì và nghiện thuốc kích thích) lại bị ghét bỏ, ít gợi được lòng thương mà chỉ khơi sự tức giận, và nhận được xếp hạng/đánh giá cực thấp về xu hướng giúp đỡ.
Từ thời điểm đó, phát hiện của các nghiên cứu cũng chỉ ra những kết quả tương tự. Trong một nghiên cứu về thái độ đối với 66 bệnh và tình trạng sức khỏe khác nhau (bao gồm béo phì), mức độ trách nhiệm cá nhân bị quy gán cho căn bệnh đã dự đoán khoảng cách và sự loại bỏ/từ chối xã hội của người tham gia. Nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy rằng việc cung cấp cho các cá nhân thông tin nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân đối với bệnh béo phì làm tăng các khuôn mẫu mặc định tiêu cực dành cho người béo phì, trong khi đó thì thông tin nhấn mạnh căn nguyên (etiology) phức tạp của bệnh béo phì (chẳng hạn như các yếu tố đóng góp sinh học và di truyền) lại cải thiện thái độ và làm giảm khuôn mẫu.
Quan điểm cho rằng béo phì là vấn đề thuộc về trách nhiệm cá nhân là thông điệp đang lan tràn trên khắp các phương tiện truyền thông. Tin tức về các nguyên nhân và giải pháp cá nhân cho bệnh béo phì đã lấn át đáng kể những thuộc tính trách nhiệm xã hội khác. Các phương tiện truyền thông giải trí cũng truyền đạt những thông điệp “chống béo” và củng cố nhận thức về việc cân nặng/trọng lượng cơ thể nằm trong tầm kiểm soát cá nhân. Thông điệp xã hội hiện tại là cả nguyên nhân và giải pháp cho bệnh béo phì đều thuộc về từng cá nhân riêng biệt. Do đó, tính phổ biến của thông điệp “trách nhiệm cá nhân” đóng một vai trò chủ chốt trong tình trạng kỳ thị, và biện minh cho tình trạng này như một phản ứng xã hội có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, thông điệp phổ biến này không phản ánh chính xác khoa học. Có nhiều yếu tố góp phần đáng kể dẫn đến bệnh béo phì vượt quá tầm kiểm soát của các cá nhân. Ngoài vai trò quan trọng của các yếu tố sinh học và di truyền trong việc điều chỉnh trọng lượng cơ thể, nhiều ảnh hưởng xã hội và kinh tế khác nhau cũng đã làm thay đổi đáng kể môi trường để thúc đẩy và củng cố bệnh béo phì. Như Seng Lee lưu ý:
Chúng ta đã tạo ra một sự không tương xứng giữa sinh học và môi trường, vì khả năng điều chỉnh trọng lượng cơ thể của con người không thể phát triển đủ nhanh để bắt kịp những đổi thay trong môi trường.
Những tiến bộ trong công nghệ tại nơi làm việc và sự sụt giảm của các công việc lao động chân tay/lao động thủ công dã dẫn đến sự giảm sút trong hoạt động tiêu hao/đốt cháy năng lượng. Môi trường được xây dựng đã làm giảm cơ hội để có được những hành vi lối sống lành mạnh thông qua các yếu tố như thiết kế đô thị, sử dụng đất, giao thông công cộng, mật độ và vị trí của các cửa hàng thực phẩm cũng như quán ăn/nhà hàng, cùng với những rào cản của khu vực/khu phố như sự an toàn và khả năng đi bộ (walkability).
Những đổi thay đáng kể đã diễn ra trong môi trường thực phẩm với khả năng tiếp cận các loại thực phẩm rẻ tiền ngày một tăng. Giá thành của các loại đồ ăn thức uống giàu calo đã giảm đáng kể, trong khi đó thì giá của trái cây, rau củ tươi và các sản phẩm làm từ sữa lại tăng, việc này phần nào làm tăng việc tiêu thụ các loại thực phẩm không lành mạnh, đặc biệt là khi kích thước phần của những mặt hàng này đã lớn hơn trước nhiều. Việc tiếp thị và quảng cáo những món ăn giàu năng lượng không lành mạnh của ngành công nghiệp thực phẩm đã góp phần dẫn đến việc tiêu thụ thực phẩm quá mức theo những cách quan trọng, đặc biệt là ở trẻ em, những đối tượng bị nhắm đến nhiều.
Những điều kiện môi trường và xã hội phức tạp mà tạo ra bệnh béo phì đòi hỏi chúng ta phải vượt ra khỏi trọng tâm hạn hẹp nhắm đến các cá nhân vừa bị coi là “thủ phạm” vừa là giải pháp cho bệnh béo phì. Các nỗ lực y tế công cộng phải giải quyết nhiều lực lượng khác nhau góp phần dẫn đến sự phát triển và duy trì của bệnh béo phì, và nhận ra rằng các hành vi cá nhân được định hình mạnh mẽ bởi môi trường gây béo phì. Như Cohen đã kết luận, “một sự khái niệm hóa chính xác hơn về đại dịch béo phì là mọi người đang phản ứng với các lực lượng trong môi trường của họ, thay vì sự thiếu ý chí và tự kiểm soát/tự chủ.” Sự đồng thuận về việc những đổi thay trong môi trường là cần thiết đối với giải pháp dành cho bệnh béo phì đang ngày một tăng.
Bên cạnh đó còn có sự đồng thuận khoa học đáng kể về thách thức giảm cân dài hạn. Một bài đánh giá hệ thống của 80 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về các biện pháp can thiệp giảm cân với ít nhất 1 năm theo dõi (bao gồm các biện pháp can thiệp về chế độ dinh dưỡng, chế độ dinh dưỡng và tập thể dục, tập thể dục, thay thế bữa ăn chính, các chế độ dinh dưỡng cực ít calo, và thuốc giảm cân) đã phát hiện thấy rằng sau 6 tháng thì mức cân nặng giảm thiểu trung bình trong các nghiên cứu là 5-9%, còn sau đó là một sự bình ổn/trạng thái ổn định với hầu hết các biện pháp can thiệp. Những phát hiện này cũng tương đương với một phân tích tổng hợp gần đây của 46 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng mà đã cho thấy hiệu quả điều trị tối đa khi trọng lượng cơ thể giảm được 6% sau 1 năm theo dõi. Nhiều đánh giá khoa học khác gần đây về các chương trình và thử nghiệm giảm cân khác nhau đã đưa ra kết quả là mức cân nặng thuyên giảm trung bình không quá 10% sau 1 hoặc 2 năm theo dõi.
Như một kết quả của các phát hiện này cùng những phát hiện nhất quán khác chứng minh các kết quả khiêm tốn của phần lớn các biện pháp can thiệp giảm cân, cộng đồng khoa học đã công nhận rằng các chương trình dinh dưỡng cũng như các loại thuốc hiện nay chỉ có thể giúp giảm cân không quá 10%. Bằng chứng này đã thúc đẩy sự đồng thuận của một số hội đồng chuyên gia và nhóm khoa học (bao gồm Viện Y học, Tổ chức Y tế Thế giới, Lực lượng Đặc nhiệm Phòng ngừa, Lực lượng Đặc nhiệm Chăm sóc Sức khỏe Phòng ngừa Canada, và Viện Tim, Phổi, Máu Quốc gia) về việc các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nên tư vấn cho bệnh nhân đặt mục tiêu giảm 10% tổng trọng lượng cơ thể thay vì phải chật vật để có được cân nặng lý tưởng. Với những cá nhân bị béo phì muốn giảm một mức cân nặng đáng kể để cải thiện sức khỏe (trái ngược với những người chỉ muốn giảm cân một cách khiêm tốn vì lý do thẩm mỹ), thì mức giảm 10% đồng nghĩa với việc nhiều người béo phì sẽ vẫn giữ nguyên tình trạng đó và tiếp tục phải chịu tổn thương bởi sự kỳ thị cân nặng.
Tỷ lệ tái tăng cân cao sau khi giảm cân cũng đáng lo ngại không kém. Đa phần những lần giảm cân đều không duy trì được lâu và mọi người thường bị tăng cân lại sau khi hoàn thành phương pháp điều trị. Những bệnh nhân giảm được cân thông qua quá trình sửa đổi lối sống thường tăng lại 30-35% số cân nặng đã giảm sau khi kết thúc điều trị một năm và tăng lại gần như là toàn bộ (nếu không phải là toàn bộ) số cân nặng đã giảm trong vòng 5 năm. Những phát hiện nhất quán trong lĩnh vực này cho thấy rằng việc ngăn chặn tình trạng tái tăng cân là hết sức khó khăn. Do đó, các chuyên gia trong lĩnh vực béo phì đã kết luận rằng tình trạng tái tăng cân xảy ra trong tất cả các biện pháp can thiệp dinh dưỡng và hành vi, và những nhà nghiên cứu khác đã khẳng định rằng:
Những người ăn kiêng mà có thể duy trì được việc giảm cân là ngoại lệ hiếm khi xảy ra. Những người ăn kiêng mà tái tăng cân nhiều hơn là giảm có khi lại được coi là bình thường, chứ chẳng phải một nhóm thiểu số kém may mắn gì.
Mặc dù bị tăng cân trở lại, nhưng mọi người vẫn có thể có được những cải thiện quan trọng trong sức khỏe với mức giảm cân nặng khiêm tốn khoảng 10%, bao gồm cả sự giảm thiểu trong những biến chứng sức khỏe liên quan đến bệnh béo phì chẳng hạn như tiểu đường tuýp 2 và huyết áp cao cũng như những cải thiện trong nguy cơ tim mạch. Tuy nhiên, ngay cả khi mức giảm cân khiêm tốn cải thiện được một số chỉ số sức khỏe, thì nó cũng không có khả năng thay đổi đáng kể ngoại hình hoặc chuyển sang chỉ số khối cơ thể không béo phì [BMI; cân nặng (kg) chia cho chiều cao (m2)] đối với đa số mọi người, và chưa chắc là đã hiệu quả trong việc giảm bớt sự kỳ thị cũng như phân biệt đối xử với cân nặng.
Một điều quan trọng nữa cần lưu ý là ngày càng có nhiều nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ những người thừa cân và béo phì đáng kể mà khỏe mạnh về mặt chuyển hóa/trao đổi chất, cùng với những người không thừa cân nhưng lại có biểu hiện của các yếu tố nguy cơ chuyển hóa và tim mạch. Mặc dù cân nặng dư thừa có thể gây ra những tác động đáng kể với nguy cơ bệnh tật, nhưng sự thay đổi trong các chỉ số sức khỏe được quan sát ở những người với chỉ số khối cơ thể giống nhau lại cho thấy sự thận trọng trong các khái quát về kích thước cơ thể và hành vi sức khỏe, điều này có thể góp phần vào các khuôn mẫu kỳ thị và lệch lạc. Với những cá nhân không có các yếu tố nguy cơ chuyển hóa, việc giảm cân có thể không phải yếu tố quan trọng để cải thiện sức khỏe. Việc thừa nhận rằng có những người béo phì khỏe mạnh về mặt trao đổi chất và các cá nhân không thừa cân nhưng lại bị béo phì về mặt chuyển hóa đã thách thức những khuôn mẫu dựa vào cân nặng và củng cố bản chất dị thể/không đồng nhất của bệnh béo phì.
Vì các khuôn mẫu và định kiến dựa vào cân nặng thường xuất hiện từ những sự quy kết rằng bệnh béo phì được sinh ra và duy trì bởi các đặc điểm cá nhân chẳng hạn như sự lười biếng hoặc thiếu ý chí, nhưng vẫn cần gia tăng nhận thức và giáo dục cộng đồng về căn nguyên phức tạp của bệnh béo phì cùng những trở ngại đáng kể hiện diện trong nỗ lực giảm cân bền vững. Thông điệp xã hội và truyền thông phổ biến mà gia tăng tình trạng đổ lỗi cho người béo phì cần phải được thay thế bằng những thông điệp cho rằng béo phì là một bệnh mãn tính với căn nguyên phức tạp, và là một tình trạng kéo dài suốt đời đối với đa số những người béo phì.
Một nhân tố thúc đẩy giảm cân không chắc chắn
Trong các bài viết gần đây của mình về bản chất phản tác dụng của sự kỳ thị đối với sức khỏe, Burris đã hỏi “Bằng chứng nào cho thấy cảm giác về danh tính bị tổn hại/hủy hoại là một cách hiệu quả để giúp mọi người áp dụng những hành vi lành mạnh hơn?” Quả thực, bất chấp sự làm nhục cùng định kiến gây ra bởi tình trạng kỳ thị cân nặng, vẫn có quan niệm/nhận thức cho rằng việc kỳ thị những người béo phì có thể tạo động lực thúc đẩy họ tham gia vào các hành vi ăn uống cũng như tập thể dục lành mạnh hơn. Ý tưởng cho rằng sự kỳ thị có thể là một công cụ kiểm soát xã hội hữu ích để ngăn cản những hành vi không lành mạnh và cải thiện sức khỏe của các cá nhân bị kỳ thị đã được tranh luận, với một số người đưa ra giả thuyết rằng người béo phì sẽ hành động nhằm thay đổi hành vi của họ để không bị mất đồng bộ với các tiêu chuẩn xã hội và từ đó tránh được sự kỳ thị.
Tuy nhiên, một số dòng bằng chứng đã không thể chứng minh mối quan hệ này với bệnh béo phì. Đầu tiên, nếu sự kỳ thị cân nặng thúc đẩy được những hành vi lối sống lành mạnh hơn và cả khả năng giảm cân, thì tư liệu về tình trạng kỳ thị cân nặng suốt nhiều thập kỷ qua đáng lẽ đã phải đi đôi với sự giảm thiểu trong tỷ lệ béo phì, thay vì sự gia tăng đáng báo động như hiện nay. Gần đây có một nghiên cứu xem xét một mẫu đại diện toàn quốc với sự tham gia của hơn 2.000 người Mỹ đã phát hiện thấy rằng khi tỷ lệ béo phì tiếp leo thang, sự phân biệt đối xử với cân nặng cũng tăng lên 66% trong vòng 10 năm qua, ngay cả sau khi đã kiểm soát/đối chứng một loạt biến số bao gồm BMI. Không chỉ có thêm nhiều người bị béo phì, mà còn có thêm nhiều người béo phì báo cáo tình trạng phân biệt đối xử dựa trên cân nặng của họ.
Thứ hai, một số nghiên cứu đã chứng minh một cách nhất quán rằng việc phải trải qua sự kỳ thị về cân nặng làm tăng khả năng tham gia vào các hành vi ăn uống không lành mạnh và mức độ hoạt động thể chất thấp hơn, cả hai yếu tố này đều làm trầm trọng thêm tình trạng béo phì cũng như tăng cân. Ở thanh thiếu niên, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng trẻ em thừa cân bị trêu chọc vì cân nặng dễ ăn uống vô độ và có những hành vi kiểm soát cân nặng kém lành mạnh hơn so với bạn bè đồng trang lứa cũng thừa cân nhưng không bị trêu chọc, ngay cả khi đã đối chứng/kiểm soát với các biến như BMI và tình trạng kinh tế xã hội. Các nghiên cứu khác cũng đã ghi nhận một cách nhất quán mối liên hệ tích cực giữa sự bắt nạt/ngược đãi/trêu chọc (victimization) dựa vào cân nặng với các triệu chứng rối loạn ăn uống và chứng ăn-ói (bulimia). Sự bắt nạt/trêu chọc dựa vào cân nặng ở thanh thiếu niên thừa cân đã được chứng minh là có liên quan đến mức độ hoạt động thể chất thấp hơn, thái độ tiêu cực về thể thao, và ít tham gia hơn vào các hoạt động thể chất ở những học sinh thừa cân.
Ở người trưởng thành thừa cân và béo phì, các phát hiện tương tự cũng đã xuất hiện. Trong cả hai mẫu lâm sàng và phi lâm sàng, những người trưởng thành bị kỳ thị cân nặng thường xuyên ăn uống vô độ hơn, có nguy cơ gia tăng đối với các mô hình ăn uống thích nghi sai cùng những triệu chứng rối loạn ăn uống, và có nhiều khả năng bị chẩn đoán mắc hội chứng cuồng ăn/chứng ăn uống quá độ (binge eating disorder) hơn. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng sự đau khổ về mặt tâm lý có thể làm trung gian điều tiết mối liên hệ giữa sự kỳ thị và hoạt động ăn uống vô độ, trong khi đó thì những trải nghiệm với sự kỳ thị lại làm tăng tính dễ bị tổn thương đối với chức năng tâm lý yếu kém, từ đó làm tăng nguy cơ của các hành vi ăn uống vô độ.
Các phản ứng đối phó với sự kỳ thị cân nặng cũng có thể dẫn đến những hành vi ăn uống không lành mạnh. Trong nghiên cứu với đối tượng tham gia là hơn 2.400 nữ giới thừa cân và béo phì đang là thành viên của một tổ chức hỗ trợ giảm cân, 79% báo cáo đã nhiều lần đối phó với tình trạng kỳ thị cân nặng bằng cách ăn nhiều hơn, và 75% báo cáo là đã đối phó bằng cách từ chối ăn kiêng. Nghiên cứu tương tự cũng chứng minh rằng những người phụ nữ thừa cân và béo phì mà tiếp thu/chủ quan hóa/nội tâm hóa sự kỳ thị cân nặng tiêu cực đã báo cáo là thường xuyên ăn uống vô độ và từ chối ăn kiêng nhiều hơn những người trưởng thành thừa cân và béo phì không tiếp thu sự kỳ thị. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người trưởng thành phải chịu sự kỳ thị cân nặng có nhiều khả năng tránh tập thể dục, ngay cả sau khi đối chứng/kiểm soát với các yếu tố BMI và sự không hài lòng về cơ thể.
Một vài nghiên cứu đã đề cập đến mối quan hệ giữa những trải nghiệm kỳ thị và mức cân nặng giảm thiểu thực tế. Trong một nghiên cứu với hơn 1.000 phụ nữ thừa cân và béo phì thuộc một tổ chức hỗ trợ giảm cân tham gia, người ta nhận thấy rằng sự kỳ thị và tiếp thu/chủ quan hóa/nội tâm hóa của các khuôn mẫu dựa vào cân nặng không dự đoán được khả năng áp dụng các chiến lược giảm cân. Một nghiên cứu khác lại chứng minh rằng sự kỳ thị cân nặng có liên quan đến lượng calo tiêu thụ lớn hơn, tỷ lệ mất hiệu quả của chương trình cao hơn, tiêu hao năng lượng thấp hơn, ít tập thể dục hơn, và giảm được ít cân hơn trong một mẫu những người trưởng thành thừa cân và béo phì đang tìm phương pháp điều trị mà đã tham gia vào một chương trình giảm cân hành vi. Ngược lại, một nghiên cứu lại phát hiện thấy rằng BMI ban đầu cao hơn, trải nghiệm kỳ thị nhiều hơn, sự không hài lòng về cơ thể thấp hơn, và nỗi sợ mập mạnh mẽ hơn có liên quan đến việc giảm cân ở những người trưởng thành tham gia Chương trình Điều chỉnh Hành vi Trevose. Tuy nhiên, các tác giả đã đưa ra lời cảnh báo chống lại việc diễn giải và tính khái quát của những kết quả này, vì mô hình điều trị béo phì trong nghiên cứu này yêu cầu các đối tượng tham gia phải giảm được một mức cân nặng chỉ định/quy định mỗi tháng nếu không sẽ bị thải hồi khỏi chương trình. Mẫu không điển hình và biện pháp đánh giá đồng thời các biến đã làm tăng tính không chắc chắn về những phát hiện này.
Thay vì sử dụng sự kỳ thị như một cách khuyến khích/thúc đẩy giảm cân, có thể việc hỗ trợ các cá nhân bằng những cách đối phó với sự kỳ thị cân nặng phù hợp sẽ tạo điều kiện cho các kết quả giảm cân. Một nghiên cứu điều trị ngẫu nhiên gần đây đã phát hiện ra rằng, so với các biện pháp kiểm soát nằm trong danh sách chờ, một biện pháp can thiệp diễn ra ngắn gọn trong 1 ngày mà dạy bệnh nhân những chiến lược dựa vào sự chấp nhận để đối phó với tình trạng kỳ thị liên quan đến bệnh béo phì đã tạo ra những cải thiện lớn hơn trong khối lượng cơ thể, chất lượng cuộc sống, tình trạng kỳ thị liên quan đến cân nặng, cùng sự đau khổ về tâm lý trong quá trình theo dõi kéo dài 3 tháng. Do đó, một mô hình có khả năng giảm bớt sự đau khổ liên quan đến tình trạng kỳ thị, đồng thời cũng tiếp sức được cho những nỗ lực kiểm soát cân nặng sẽ cung cấp một cách tiếp cận điều trị mới mà có vẻ rất đáng theo đuổi.
Mặc dù vẫn cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu để kiểm nghiệm ảnh hưởng của sự kỳ thị cân nặng đối với kết quả giảm cân, nhưng các bằng chứng có sẵn đang thách thức những giả định cho rằng kỳ thị cân nặng là một công cụ hữu ích giúp thay đổi hành vi sức khỏe. Thay vào đó, nghiên cứu lại cho thấy rằng sự kỳ thị cân nặng chỉ củng cố những hành vi lối sống không lành mạnh mà góp phần gây ra bệnh béo phì mà thôi, và nó thậm chí còn là một phương pháp không thể giúp giảm cân thành công.
Mối đe dọa đối với sức khỏe thể chất và tinh thần
Bên cạnh việc củng cố những hành vi không lành mạnh, sự kỳ thị cân nặng còn là mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngày càng có nhiều bằng chứng chứng minh rằng tình trạng kỳ thị cân nặng khơi gợi sự căng thẳng về tâm lý và các nghiên cứu mới nổi cũng chỉ ra rằng sự căng thẳng này sẽ dẫn đến những hệ quả sức khỏe thể chất yếu kém hơn đối với các cá nhân bị béo phì. Trong số các mẫu người trưởng thành béo phì lâm sàng và phi lâm sàng, sự kỳ thị cân nặng đã được ghi nhận là yếu tố nguy cơ đáng kể nhất với chứng trầm cảm, lòng tự trọng thấp, và sự không hài lòng/thỏa mãn về cơ thể. Những phát hiện này luôn nhất quán mặc dù đã đối chứng/kiểm soát với các biến số như độ tuổi, giới tính, sự khởi phát bệnh béo phì, và BMI, điều này cho thấy rằng thay vì liên quan đến bản thân yếu tố trọng lượng cơ thể dư thừa, các hệ quả tâm lý tiêu cực lại có mối liên hệ với những trải nghiệm về sự kỳ thị cân nặng. Ngoài ra, một nghiên cứu gần đây mà xem xét một mẫu đại diện toàn quốc với hơn 9.000 người trưởng thành béo phì tham gia đã nhận thấy rằng việc phân biệt đối xử về cân nặng có liên quan đáng kể đến chẩn đoán về các dạng rối loạn tâm trạng và lo âu hiện tại, cũng như việc sử dụng các dịch vụ sức khỏe tâm thần sau khi đối chứng các đặc điểm nhân khẩu-xã hội và tình trạng căng thẳng được nhận thức.
Meunnig lập luận rằng mức độ căng thẳng tâm lý cao mà người béo phì phải chịu đựng là kết quả của sự kỳ thị cân nặng góp phần vào sinh lý bệnh học liên quan đến bệnh béo phì, và rằng nhiều thay đổi sinh hóa bất lợi liên qua đến tình trạng béo phì cũng có thể sinh ra bởi sự căng thẳng tâm lý đi kèm với việc thường xuyên bị phân biệt đối xử về cân nặng. Các bất lợi xã hội có thể ảnh hưởng đặc biệt đến bệnh béo phì thông qua tình trạng căng thẳng mãn tính, lo âu, và tâm trạng tiêu cực, tất cả đều liên quan đến bệnh béo bụng, và có thể gia tăng nguy cơ béo phì bằng cách kích hoạt các cơ chế sinh lý đặc biệt mà làm tăng cảm giác thèm ăn và gây suy yếu hệ thống cảm giác no/thỏa mãn, làm tăng tình trạng tích trữ mỡ và việc tiêu thụ thực phẩm.
Niềm tin cho rằng tình trạng căng thẳng gây ra bởi sự kỳ thị không chỉ làm trầm trọng thêm bệnh tình mà còn gây ra bệnh thường xuyên được thảo luận trong các tài liệu về ảnh hưởng sức khỏe của định kiến và phân biệt chủng tộc. Nghiên cứu đã chứng minh rằng những người Mỹ gốc Phi bị phân biệt chủng tộc hoặc ngược đãi thường bị tăng nguy cơ gặp phải các biến cố về mạch vành, ung thư vú, vôi hóa động mạch vành (coronary artery calcification), phản ứng mạch máu (vascular reactivity), và tăng huyết áp, cùng với tình trạng lạm dụng thuốc cao hơn. Những hệ quả này vẫn tồn tại ngay cả khi các biến gây nhiễu tiềm năng – bao gồm nhân khẩu-xã hội học, yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tim mạch điển hình, và BMI – được kiểm soát/đối chứng. Những phát hiện tương tự cũng đã xuất hiện ở người Mỹ gốc Á và người Mỹ gốc Trung Quốc, chứng minh rằng phân biệt chủng tộc có liên quan đến nhiều tình trạng mãn tính chẳng hạn như bệnh tim, đau đớn, và bệnh hô hấp, thậm chí sau khi các yếu tố nhân khẩu-xã hội liên quan đã được kiểm soát/đối chứng. Những phát hiện này đã khiến các nhà nghiên cứu đi đến kết luận rằng phân biệt chủng tộc có thể là một nhân tố gây căng thẳng tâm lý xã hội làm tăng các phản ứng tim mạch và từ đó gây suy yếu sức khỏe.
Một số bằng chứng đã trực tiếp chỉ ra những mối liên kết giữa thực trạng phân biệt chủng tộc và những hệ quả liên quan đến béo phì, bao gồm tăng cân và những bất thường về mặt chuyển hóa. Hunte và Williams nhận thấy rằng tình trạng phân biệt đối xử thường xuyên/dai dẳng/mãn tính có liên quan đến sự tích tụ mỡ thừa trong cơ thể. Những người da trắng gốc Ireland, Do Thái, Ba Lan, và Ý mà bị phân biệt đối xử thường xuyên dễ sở hữu vòng eo có nguy cơ cao hơn 2-6 lần so với những người da trắng có cùng dòng dõi/nguồn gốc dân tộc nhưng không bị phân biệt đối xử dai dẳng. Các nghiên cứu khác cũng phát hiện thấy rằng những cá nhân chủ quan hóa/nội tâm hóa sự kỳ thị đặc biệt dễ bị béo phì và không dung nạp glucose.
Có những sự khác biệt giữa định kiến dựa vào chủng tộc và cân nặng, nhưng các phát hiện này vẫn cung cấp ý nghĩa quan trọng về tác động của sự kỳ thị cân nặng đối với hệ quả sức khỏe của những người bị béo phì. Bằng chứng hiện tại cho thấy rằng sự kỳ thị và phân biệt đối xử về cân nặng làm tăng tính dễ tổn thương với những khổ đau về tâm lý mà có thể góp phần dẫn đến sức khỏe thể chất yếu kém. Vì những hệ quả bất lợi xuất hiện cùng bệnh béo phì có nguy cơ gia tăng, nên ảnh hưởng tiêu cực bổ sung của sự kỳ thị cân nặng đối với sức khỏe là rất đáng quan ngại. Như Link và Phelan đã kết luận:
Tình trạng căng thẳng liên quan đến sự kỳ thị có thể đặc biệt khó khăn cho những người mắc bệnh bị kỳ thị. Họ không chỉ có nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến căng thẳng khác, mà chiều hướng lâm sàng của bản thân căn bệnh bị kỳ thị còn có thể trở nên tồi tệ hơn và những hệ quả khác sẽ bị ảnh hưởng, chẳng hạn như khả năng làm việc hoặc có một cuộc sống xã hội bình thường.
Việc tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực này sẽ giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tình trạng căng thẳng do sự kỳ thị cân nặng gây ra và sức khỏe.
Mối đe dọa đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng
Ngày càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thiết lập/bối cảnh/cơ sở chăm sóc sức khỏe là một nguồn gốc đáng kể của tình trạng kỳ thị cân nặng, làm giảm cơ hội nhận được sự chăm sóc y tế hiệu quả của các bệnh nhân béo phì. Cả nghiên cứu tự báo cáo và nghiên cứu thực nghiệm đều cho thấy những khuôn mẫu và thái độ tiêu cực đối với bệnh nhân béo phì bởi một loạt các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và chuyên gia thể dục, bao gồm quan điểm cho rằng bệnh nhân béo phì là những người lười biếng, thiếu tính kỷ luật tự giác, không trung thực, kém thông minh, phiền nhiễu, và không tuân thủ phương pháp điều trị. Cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng đối với bệnh nhân béo phì thì các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường dành ít thời gian trong các buổi hẹn cũng như đưa ra ít thông tin mang tính giáo dục hơn cho bệnh nhân béo phì so với những bệnh nhân gầy hơn. Do đó, những người béo phì thường báo cáo về những trải nghiệm liên quan đến thành kiến đối với cân nặng tron lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Bệnh nhân béo phì cũng chỉ ra rằng họ cảm thấy không được tôn trọng/bị xúc phạm bởi các nhà cung cấp dịch vụ, cho rằng họ sẽ không được coi trọng vì cân nặng của mình, báo cáo rằng mọi vấn đề y tế mà họ đang gặp phải đều bị đổ tại cân nặng của chính họ, và thường miễn cưỡng giải quyết/đề cập đến những mối lo ngại về cân nặng của mình với các nhà cung cấp dịch vụ. Toàn bộ các phát hiện này đều chỉ ra những trải nghiệm chăm sóc sức khỏe không đạt chuẩn cho người béo phì.
Việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng bị ảnh hưởng bởi sự kỳ thị cân nặng. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng người béo phì ít có khả năng trải qua quá trình sàng lọc ung thư dự phòng phù hợp với độ tuổi. Tỷ lệ chăm sóc sức khỏe phòng ngừa/dự phòng thấp hơn vẫn tồn tại ngay cả sau khi đã đối chứng/kiểm soát với các yếu tố thường liên quan đến việc giảm sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chẳng hạn như học vấn thấp hơn, thu nhập thấp hơn, thiếu bảo hiểm y tế, và gánh nặng bệnh tật lớn hơn. Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng sự kỳ thị cân nặng có thể là một yếu tố đóng góp cụ thể cho những phát hiện này. Amy cùng đồng nghiệp đã khảo sát 498 phụ nữ thừa cân và béo phì (có bảo hiểm y tế và khả năng tiếp cận cao với dịch vụ chăm sóc sức khỏe) về những rào cản tự nhận thức của họ với quá trình sàng lọc ung thư phụ khoa định kỳ (routine gynecological cancer screening). Với nhóm phụ nữ có mức độ béo phì cao nhất, 68% đã báo cáo rằng họ trì hoãn việc tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe vì cân nặng của họ, và 83% thì cho biết là cân nặng của họ là một rào cản/trở ngại đối với việc tiếp nhận dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp. Khi được hỏi về những lý do cụ thể dẫn đến việc trì hoãn, những phụ nữ này đã trả lời là phương pháp điều trị thiếu tôn trọng và thái độ tiêu cực của các nhà cung cấp dịch vụ, cảm giác xấu hổ khi phải bước lên bàn cân, việc phải nhận những lời khuyên giảm cân mà họ thậm chí còn chẳng hỏi/yêu cầu, ngoài ra họ còn báo cáo rằng áo choàng bệnh viện, bàn khám, và các thiết bị y tế khác là quá nhỏ để có thể hoạt động chuẩn xác với kích thước cơ thể họ. Tỷ lệ nữ giới báo cáo những rào cản này gia tăng theo BMI.
Vì những người bị béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh đi kèm liên quan đến cân nặng, nên dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng là hết sức thiết yếu. Thừa nhận những ảnh hưởng có hại của sự kỳ thị cân nặng trong chăm sóc sức khỏe là một việc cần thiết để hiễu rõ hơn về những tác động chồng chất của tình trạng kỳ thị cân nặng đối với y tế công cộng.
Những nỗ lực can thiệp béo phì bị suy yếu/khiếm khuyết
Bản chất bị kỳ thị của một căn bệnh ảnh hưởng mạnh mẽ đến những nỗ lực y tế công cộng nhằm ngăn chặn hoặc điều trị căn bệnh đó, điều này đã được chứng minh rõ ràng bởi lịch sử xã hội của bệnh HIV/AIDS và các bệnh bị kỳ thị khác. Mặc dù các cấu trúc xã hội của bệnh béo phì ít được công nhận hơn rất nhiều, nhưng chúng vẫn đóng một vai trò trung tâm trong việc xác định các phản ứng chính sách đối với dịch bệnh này. Về phương diện lịch sử, các chính phủ đã không thể phản ứng một cách phù hợp với những căn bệnh mà chủ yếu gây khốn khổ cho các nhóm thuộc xã hội không được mong muốn. Béo phì thường bị coi là lỗi lầm/thất bại của một cá nhân; do đó, nó không được giải quyết “ngang cơ” với những tình trạng y tế không bị kỳ thị. Thay vì hướng trọng tâm vào việc thiết lập một kế hoạch toàn diện nhằm giải quyết đại dịch béo phì, thì các nhà hoạch định chính sách lại chủ yếu tập trung nỗ lực vào việc giáo dục những cá nhân bị ảnh hưởng. Pomeranz đã viết:
Tình trạng phân biệt đối xử hiện hữu trong sự đau ốm, bệnh tật mà bản thân xã hội cùng chính phủ chẳng thể giải quyết thỏa đáng bởi chính sự phân biệt đối xử đó gây ra tác hại. Ngược lại, xã hội và chính phủ lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân và ban hành cũng như giải thích pháp chế dựa vào lý thuyết cho rằng mọi người đang không tự chịu trách nhiệm thích đáng đối với sức khỏe của chính họ. Bản thân những người bị béo phì đã phải trải qua những thành kiến về cân nặng rồi, ấy thế mà họ còn phải chịu đựng thêm khi bị xã hội đổ lỗi, chê trách vì bệnh tình của mình, từ đó mà phải từ bỏ trách nhiệm giải quyết những nguyên nhân ẩn sau căn bệnh béo phì của mình.
Việc tập trung giáo dục dinh dưỡng trong cách tiếp cận của Mỹ đối với bệnh béo phì phản ánh những giả định cho rằng tỷ lệ béo phì tăng cao do người Mỹ thiếu kiến thức đầy đủ về những hành vi cá nhân dẫn đến tình trạng tăng cân. Ví dụ, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ (US Department of Health and Human Services) đã phát động chiến dịch “Small Steps” (tạm dịch Bước Nhỏ) vào năm 2004, mỗi năm được tài trợ 1,5 triệu đôla, với mục tiêu chính là gia tăng nhận thức của những người Mỹ “không lành mạnh.” Chiến dịch này bao gồm một loạt thông điệp dịch vụ công cộng trên đài phát thanh và truyền hình mà “sử dụng sự hài hước nhằm truyền cảm hứng cho những người trưởng thành thừa cân đưa ‘Small Steps’ vào cuộc sống cuồng nhiệt của họ.” Trang web của chiến dịch còn có phần “Mẹo sức khỏe của ngày hôm nay,” chẳng hạn như Bước Nhỏ số 92: “Đi lại thay vì ngồi một chỗ.” Các nhà phê bình than phiền rằng chiến dịch này không những không hiệu quả mà còn lảng tránh nguyên nhân thực sự gây ra bệnh béo phì.
Sự kỳ thị người béo phì cũng rõ ràng khi hành động và chính sách liên quan đến căn bệnh này của các tổ chức liên bang được đem ra so sánh với các chính sách và hành động của những bệnh khác. Ví dụ, ngân sách dự kiến năm 2009 Viện Y tế Quốc gia dành cho ung thư, HIV/AIDS, và các bệnh tiêu hóa lần lượt là 5,6 tỷ đôla, 2,9 tỷ đôla, và 1,2 tỷ đôla. Trong khi đó, ngân sách cho bệnh béo phì, căn bệnh gây ra nhiều nguy cơ sức khỏe và ảnh hưởng đến nhiều dân Mỹ hơn một cách đáng kể, lại chỉ vỏn vẹn có 658 triệu đôla. Downey ghi chú rằng, trong lịch sử, phản ứng của chính phủ với các thách thức về y tế công cộng (chẳng hạn như bệnh lao, cúm, bại liệt (polio), hút thuốc lá, và HIV/AIDS) đã đưa vào nhiều nỗ lực phối hợp quy mô lớn mà bao gồm các chiến lược chống lại sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Song, phản ứng của chính phủ liên bang với bệnh béo phì lại chưa đáp ứng được tiêu chuẩn lịch sử này để giải quyết những căn bệnh đe dọa sức khỏe cũng như mạng sống của một tỷ lệ lớn người Mỹ thuộc mọi nhóm tuổi, giới tính, chủng tộc, và kinh tế xã hội.
Cũng cần lưu ý rằng các sáng kiến lập pháp liên quan đến bệnh béo phì của liên bang và tiểu bang phần lớn đều tránh đề cập/giải quyết các nguyên nhân xã hội và môi trường góp phần gây ra căn bệnh này. Các chính phủ đã dành nhiều thời gian đáng kể để xem xét các pháp chế nhằm bảo vệ ngành công nghiệp thực phẩm và nhà hàng khỏi những khiếu nại vi phạm quyền lợi/đối xử bất công dân sự tiềm năng so với khoảng thời gian ít ỏi mà họ dành ra để phát triển những chính sách phòng ngừa béo phì. Trong quá trình tranh luận ủng hộ “Đạo luật Trách nhiệm Cá nhân trong Tiêu thụ Thực phẩm,” một Nghị sĩ đã tuyên bố, “Dự luật này liên quan đến việc tự chịu trách nhiệm. Nếu bạn ăn quá nhiều, bạn sẽ tăng cân và trở nên mập mạp. Đó là lỗi của bạn. Đừng cố đổ lỗi cho người khác.” Vào năm 2008, Dự luật Bang Mississippi đã được đề xuất để cấm các nhà hàng/quán ăn phục vụ thức ăn cho tất cả những người bị béo phì. Một nỗ lực công khai tình trạng phân biệt đối xử có chủ ý như vậy đã nhấn mạnh sự phổ biến rộng khắp của thực trạng kỳ thị cân nặng, ngay cả ở những người có trọng trách đưa ra quyết định quan trọng.
Tin vui là gần đây đã xuất hiện những nỗ lực hướng đến việc giải quyết các yếu tố môi trường và cấu trúc góp phần dẫn đến bệnh béo phì (cụ thể là thông qua các chính sách nhằm cải thiện thực phẩm ở trường học, ban hành luật gán nhãn thực đơn, đánh thuế các loại nước ngọt có ga, và cải thiện khả năng tiếp cận với thực phẩm lành mạnh). Tuy nhiên, những nỗ lực quy mô lớn hơn vẫn rất cần thiết. Để giải quyết tình trạng béo phì tương xứng với ảnh hưởng của nó, một phản ứng phối hợp và được tài trợ hiệu quả là cực kì quan trọng.
4. Tác động quan trọng với lĩnh vực y tế công cộng
Với các bằng chứng hiện nay, cùng với những sự kỳ thị khác, rõ ràng là thực trạng kỳ thị cân nặng có những tác động tiêu cực đối với y tế công cộng. Kỳ thị cân nặng đe dọa sức khỏe thể chất và tinh thần của những người bị béo phì, gây trở ngại cho việc thực hiện các nỗ lực hiệu quả nhằm ngăn chặn bệnh béo phì, và làm trầm trọng thêm những sự chênh lệch về sức khỏe. Hình 1 tóm tắt các hệ quả y tế công cộng và cá nhân của tình trạng kỳ thị cân nặng mà cuối cùng có thể làm xấu đi kết quả sống đối với người béo phì.
Hình 1: Hệ quả y tế/sức khỏe công cộng và cá nhân của sự kỳ thị cân nặng.
Ghi chú:
Kỳ thị cân nặng |
Hệ quả sức khỏe cá nhân | Hệ quả y tế công cộng |
Bệnh tật và tử vong |
Ăn uống không lành mạnh và hoạt động thể chất ít hơn | Coi nhẹ các yếu tố xã hội và môi trường dẫn đến bệnh béo phì | ||
Rối loạn tâm lý | Các nỗ lực phòng ngừa béo phì bị suy yếu | ||
Sinh lý bệnh học do tình trạng căng thẳng gây ra | Chênh lệch về sức khỏe gia tăng | ||
Chăm sóc sức khỏe không đạt chuẩn và giảm sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe | Bất bình đẳng xã hội |
Bằng cách hạn chế phản ứng của quốc gia về bệnh béo phì với việc giáo dục những sự lựa chọn cá nhân liên quan đến dinh dưỡng và hoạt động thể chất, các nguyên nhân xã hội và môi trường quan trọng gây ra bệnh béo phì đã bị coi nhẹ, những sự chênh lệch về kinh tế và xã hội mà góp phần dẫn đến bệnh béo phì cũng bị bỏ qua, và tình trạng kỳ thị cũng như phân biệt đối xử về cân nặng cũng bị xem thường. Thật vậy, chính sách y tế công cộng có thể bảo vệ những người mắc bệnh khỏi sự phân biệt đối xử, nhưng lại cũng có thể kích thích tình trạng đối xử bất công và bất bình đẳng/chênh lệch. Thật không may, chính phủ Mỹ vẫn chưa giải quyết tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử về cân nặng theo pháp luật chính thống, khiến hàng triệu người béo phì phải chịu đựng sự đối xử bất công vì cân nặng của họ. Những hệ quả xã hội này có thể gia tăng sự cách biệt/chênh lệch về sức khỏe mà những người Mỹ bị béo phì vốn đã phải đối mặt. Vì bệnh béo phì đặc biệt phổ biến ở các nhóm người nghèo hoặc thiểu số sống tại những khu vực khó khăn/bất lợi, nên những người béo phì thường nằm trong các nhóm chịu nhiều thiệt thòi/bị coi là không quan trọng (các nhóm bị cách ly khỏi nhịp điệu xã hội) và thường phải trải qua nhiều sự kỳ thị. Do đó, tình trạng kỳ thị người béo phì có liên quan mật thiết đến những sự bất bình đẳng trong xã hội.
Để cộng đồng y tế công cộng giải quyết được những các biệt/chênh lệch về sức khỏe và xã hội đang lan rộng mà người béo phì phải đối mặt, thay vì áp dụng cách tiếp cận đổ lỗi cho nạn nhân, chúng ta cần ủng hộ một chiến lược phòng ngừa béo phì toàn diện bao gồm các nỗ lực giảm thiểu tình trạng kỳ thị cũng như phân biệt đối xử với cân nặng. Chúng tôi xin đưa ra 3 khuyến nghị để đạt được mục tiêu này.
Đầu tiên, quan trọng là phải giải quyết/đề cập đến thực trạng kỳ thị cân nặng trong các biện pháp can thiệp bệnh béo phì, và đưa những thông điệp chống kỳ thị vào các chiến dịch phòng chống căn bệnh này. Ví dụ, các biện pháp can thiệp nên chú trọng vào sức khỏe không chỉ như một yếu tố thúc đẩy chính mà còn như một hệ quả mong muốn đối với sự thay đổi hành vi, thay vì những thông điệp nhấn mạnh việc đạt được cân nặng lý tưởng mà có thể duy trì các khuôn mẫu về bệnh béo phì và gây đau khổ cho người béo phì. Những hành vi ăn uống không tốt cho sức khỏe, chẳng hạn tiêu thụ đồ ăn nhanh và nước ngọt có ga, có thể được ngăn chặn với tất cả mọi người, bất kể kích thước cơ thể của họ. Việc kết hợp các thông điệp chống kỳ thị vào những sự can thiệp dành cho thanh thiếu niên có thể đặc biệt quan trọng vì tính dễ bị tổn thương của trẻ béo phì với các các hệ quả sức khỏe thể chất và tinh thần tiêu cực từ việc đối xử tàn tệ dựa vào cân nặng. Một báo cáo từ năm 2005 do Viện Y học ban hành đã công nhận tầm quan trọng của việc xem xét sự kỳ thị cân nặng trong các biện pháp can thiệp béo phì với thanh thiếu niên và khuyến nghị chuyển trọng tâm của các nỗ lực phòng ngừa sang nhấn mạnh những nỗ lực thúc đẩy sức khỏe thay vì ngoại hình. Tương tự, Hiệp hội Giáo dục Dinh dưỡng cũng khuyến nghị rằng các chương trình phòng ngừa béo phì ở nhà trường nên bao gồm việc thúc đẩy khả năng chịu đựng trọng lượng/cân nặng và các chính sách cấm trêu chọc và đối xử tệ hại với những học sinh béo phì của nhà trường. MacLean cùng cộng sự đã đưa ra một loạt khuyến nghị liên quan đến kỳ thị dành cho các biện pháp can thiệp y tế công cộng đối với bệnh béo phì, bao gồm đánh giá tác động xã hội của các biện pháp can thiệp sẵn có đối với tình trạng kỳ thị, cung cấp quá trình đào tạo giảm kỳ thị cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe, sàng lọc các thông điệp y tế công cộng với nội dung kỳ thị, tìm kiếm các quan điểm từ người béo phì nhằm xác định giải pháp cho các chương trình kỳ thị, và đảm bảo việc thực hiện nhất quán các thông điệp không kỳ thị.
Thứ hai, các nỗ lực ngăn chặn béo phì cần phải phát triển từ các chiến dịch giáo dục tập trung vào hành vi đơn lẻ thành những chính sách phối hợp quy mô lớn hơn mà có khả năng khởi xướng những thay đổi xã hội nhằm giúp đảo ngược các điều kiện xã hội và môi trường đã tạo ra bệnh béo phì ngay từ đầu. Adler và Stewart đã đề xuất một phương pháp tiếp cận “công bằng hành vi” để giải quyết béo phì, trong đó nêu bật sự cần thiết phải cung cấp đầy đủ nguồn lực trong môi trường cho phép các cá nhân tham gia vào những hành vi tăng cường sức khỏe. Họ đưa ra lập trường rằng các cá nhân chỉ nên chịu trách nhiệm tham gia vào các hành vi lành mạnh nếu họ được tiếp cận đầy đủ với những điều kiện cho phép những hành vi ấy. Tức là, trừ khi mọi người có đủ nguồn lực (cụ thể là tiếp cận với các loại thực phẩm lành mạnh, giá cả phải chăng) để kháng lại môi trường gây béo phì, thì việc kì vọng sự thành công ở các hành động cá nhân là quá khó (và không công bằng). Do đó, mặc dù phương pháp tiếp cận này không bỏ qua trách nhiệm cá nhân, nhưng trọng tâm của nó được chuyển từ đổ lỗi cá nhân sang một vấn đề thuộc về công bằng xã hội. Nỗ lực tạo ra những thay đổi môi trường mà hỗ trợ các hành vi có trách nhiệm sẽ giúp cải thiện sức khỏe và thu hẹp bớt những cách biệt về sức khỏe cho tất cả người Mỹ, bất kể cân nặng của họ. Việc công nhận căn nguyên phức tạp của bệnh béo phì cũng giúp giảm thiểu tình trạng kỳ thị cân nặng cùng những hậu quả tiêu cực của nó. Vì có nhiều nguồn lực địa phương cũng như quốc gia đang được phân bổ cho việc phòng ngừa bệnh béo phì hơn, nên điều quan trọng là phải đảm bảo rằng các nguồn lực được sử dụng hiệu quả và rằng tình trạng kỳ thị sẽ không hủy hoại những nỗ lực mới.
Thứ ba, nỗ lực cải thiện sức khỏe của những người béo phì sẽ được tạo điều kiện bởi luật cấm sự phân biệt đối xử về cân nặng. Hiện nay, chưa có một luật liên bang nào giúp bảo vệ những người béo phì khỏi sự phân biệt đối xử cân nặng. Michigan là tiểu bang duy nhất cấm tình trạng phân biệt đối xử với nhân viên trên cơ sở cân nặng, và quận Columbia cùng các thành phố San Francisco và Santa Cruz của California là cũng nằm trong số ít khu vực đưa kích thước cơ thể vào các sắc lệnh về nhân quyền. Do đó, khi tình trạng phân biệt đối xử cân nặng gia tăng, những người thừa cân và béo phì không có phương tiện để tìm kiếm sự đền bù pháp lý cho sự phân biệt đối xử sai trái. Sự thiếu biện pháp bảo vệ cho những người béo phì cho phép tình trạng phân biệt đối xử trong công việc, giáo dục, và chăm sóc sức khỏe tồn tại dai dắng, góp phần dẫn đến những chênh lệch/cách biệt về sức khỏe, bệnh tật, và cả tử vong. Các giải pháp khắc phục pháp lý có ý nghĩa rõ ràng là hết sức cần thiết để chống lại tình trạng phân biệt đối xử cân nặng, ở cả cấp độ bang lẫn cấp độ liên bang. Ngày càng có nhiều bằng chứng ghi nhận những hệ quả tiêu cực của sự kỳ thị và phân biệt đối xử cân nặng cung cấp sự biện hộ mạnh mẽ cho công tác tố tụng. Các chuyên gia y tế công cộng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các biện pháp bảo vệ cần thiết cho người béo phì.
Kỳ thị béo phì là một thực trạng phổ biến rộng khắp, gây tổn hại và đe dọa các giá trị sức khỏe công cộng cốt lõi. Tỷ lệ thừa cân và béo phì lên đến con số 76% ở một số nhóm tại Mỹ. Bằng việc bỏ qua/tảng lờ tình trạng kỳ thị cân nặng, chính cộng đồng y tế/sức khỏe công cộng cũng đang lờ đi sự đau khổ đáng kể mà rất nhiều người Mỹ đang phải chịu đựng. Để giải quyết hiệu quả đại dịch béo phì và cải thiện sức khỏe công cộng, điều quan trọng là phải thách thức những giả định xã hội thường thấy mà đang duy trì tình trạng kỳ thị cân nặng, và ưu tiên việc thảo luận thực trạng này trong các bài diễn văn quốc gia về bệnh béo phì.
5. Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trung tâm Rud về Chính sách Thực phẩm và Béo phì tại Đại học Yale.
(Dịch từ bài viết Obesity Stigma: Important Considerations for Public Health, tác giả: Rebecca M. Puhl, PhD và Chelsea A. Heuer, MPH, người dịch: Tống Hải Anh, nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng)