Mặc dù có diện tích đất liền hạn chế, nhưng quần đảo Nhật Bản lại nằm trong các loại khí hậu từ ôn hòa lạnh đến cận nhiệt đới. Sự đa dạng đó là điều kiện sinh sôi của một loạt những loại thực phẩm, gia vị và phong cách nấu nướng giữa vùng này với vùng kia – một điều may mắn thứ thiệt đối với du khách và những người yêu thích ẩm thực.
Lịch sử trọn vẹn của phong cách và thức ăn theo vùng trong hộp cơm Bento
Hộp cơm trưa bento đã được áp dụng nhanh chóng ở nước ngoài, đặc biệt là ở Pháp. Được thúc đẩy bởi nhiều loại phụ kiện với các mẫu thiết kế từ dễ thương đến tinh xảo, ngày càng có nhiều người chấp nhận cách thức sáng tạo của một phong cách bữa ăn mang được theo người như thế này.
Một phát minh cho sự thuận tiện, hộp cơm trưa bắt nguồn từ thời nhà Tống (960–1279) của Trung Quốc và du nhập vào Kyoto ở cuối những năm 1300. Nó nhanh chóng phổ biến trên khắp nước Nhật; ngày nay, mọi ngóc ngách trên đất nước lấy làm tự hào về những hộp cơm bento riêng biệt làm từ những loại thức ăn địa phương. Ban đầu, giỏ tre đan ba tầng jikiro được người Nhật dùng để đi dã ngoại ngắm hoa mùa xuân và chuyến du ngoạn mùa thu để thưởng thức lá cây hay nhặt nấm. Đến cuối những năm 1500, bộ hộp gỗ, đĩa đựng thức ăn, và hũ với cốc sake phát triển, về sau nở rộ trong thời Edo (1603– 1867), khi nhiều phong cách bento mới mọc lên như nấm. Khoảng cuối những năm 1600, những người đi xem kịch tự gói mang theo hộp bento của họ để ăn ở các buổi diễn kabuki; đến giữa những năm 1800, chính các rạp chiếu kịch bắt đầu bán bento makunouchi cho các khách quen của họ ăn vào các đoạn nghỉ giữa vở kịch.
Với sự xuất hiện của động cơ hơi nước trong thời Meiji (1868–1912), các bữa ăn đóng hộp ekiben bắt đầu được bán ở các sân ga. Ngày nay có vô vàn các loại cơm trưa mang đi như vậy trên khắp Nhật Bản, và du khách gần xa nay tìm kiếm chúng để nếm thử các đặc sản ngon đặc trưng của địa phương. Vào năm 1937, một nhà hàng Nhật Bản cao cấp ở Osaka đã cho ra mắt hộp cơm bento Shokado nổi tiếng. Được trình bày trong hộp vuông chia làm bốn ngăn, nó được đặt tên theo họa sĩ, tu sĩ, và bậc thầy trà đạo Shokado Shojo (1584−1639) đầu thời Edo, người đã thích hợp hóa một cái hộp thường được nông dân dùng để trữ hạt giống như thế, thành hộp bút vẽ của ông .
Trong bốn ngăn của hộp bento Shokado, đựng gọn gàng những yếu tố cơ bản của washoku là cơm, sashimi, một món namasu gồm cá ngâm dấm với rau củ, một món ninh như là takiawase, một món nướng yakimono, hoặc một món salad chín aemono—toàn bộ chỗ thức ăn này được chiế biến sao cho ăn nguội hay ăn ở nhiệt độ phòng đều ngon. Những nguyên liệu tươi nhất theo mùa được dụng tâm sắp xếp để đạt được độ hòa hợp cân bằng dùng năm màu sắc đỏ, vàng, xanh lá, trắng và đen trong hình thức nghệ thuật ẩm thực tinh hoa Nhật Bản này, hình thức được những người yêu thích ẩm thực ở mọi nơi tự cho là của riêng họ.
Chú thích cho phần chữ nhỏ:
Hassun: Milt Tinh hoàn cá ngâm giấm, komatsuna cải bó xôi Nhật, trứng cá hồi, trứng cuộn, tôm, lưỡi bò hầm tương ngọt và các món khác.
Takiawase: Món rau củ ninh gồm măng, thân cây bơ gai, đậu tằm, rong biển wakame, và lá tiêu non sansho.
Sashimi: Cá tráp, iwatake tạo thành lá vàng, mực, củ mài, cải canh mizuna, bí đỏ, và wasabi.
Rice: Cơm trắng hấp rắc vừng trắng.



[dropshadowbox align=”none” effect=”lifted-both” width=”auto” height=”” background_color=”#ffffff” border_width=”1″ border_color=”#dddddd” ]Bài viết này được trích dẫn trong cuốn sách Phong cách Washoku – Phương pháp tiếp cận ẩm thực hiếm thấy của Nhật Bản. Bạn truy cập vào liên kết này để tải về file PDF đầy đủ.[/dropshadowbox]
(Dịch từ cuốn sách WASHOKU của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản – MAFF, người dịch Trần Tuyết Lan, nhóm Hạ Mến, hướng dẫn ăn đúng)